Mừng Sinh Nhật Thầy
Thông Thiền
Nhật Quang hay Thường Chiếu
Phước Thái được dồi dào
Long Thành sinh pháp khí
Tiếp nối mãi dòng Tào.
Trí Đức như nhật nguyệt
Tỏa sáng khắp muôn sao
Chúng con đồng kính ngưỡng
Chúc Thầy tuổi hạc cao.
TRẦN TƯƠNG
TRẦN TƯƠNG 陳 襄
(không rõ năm sinh năm mất)
Thi nhân đời Tống, tự Mê Cổ, người Hầu Quang, tỉnh Phúc Châu. Ông đỗ tiến sĩ niên hiệu Khánh Lịch (1041-1048), làm quan huyện Lệnh Hà Dương, sau dời đến Tri Thường Châu, làm Thôi quan ở phủ Khai Phong, rồi làm Phán quan Diêm Thiết, Tri gián viện, đổi làm Thị ngự sử Tri tạp sự. Trần Tương tố giác Vương An Thạch, nên bị chuyển làm Tri Trần Châu, chuyển đến Hàng Châu, đã được phong Khu mật học sĩ tri thông tiến, Ngân đài tư kiêm thị độc, rồi làm đến Phán quan thượng thư đô tỉnh. Sau khi ông mất, được phong tặng Cấp sự trung. Tác phẩm: Cổ Linh tập của ông được người đời lưu truyền.
Read morePHẦN DƯƠNG THIỆN CHIÊU
PHẦN DƯƠNG THIỆN CHIÊU 汾 陽 善 昭
(947-1024)
Thiền sư nổi tiếng đời Bắc Tống, thuộc tông Lâm Tế. Ngài người Thái Nguyên, thưở nhỏ có trí huệ lớn, học rộng nghe nhiều. Năm 11 tuổi xuất gia, từng tham học với 71 vị thạc đức tôn túc, sau Ngài đến Thủ Sơn, Nhữ Châu tham kiến thiền sư Tỉnh Niệm mà đại ngộ, làm người nối pháp tông Lâm Tế. Sau đến Phần Dương trụ trì viện Thái Tử, chùa Thái Bình, diễn nói tông yếu, đem cơ dụng 3 câu, 4 câu ba quyết, 18 xướng tiếp dẫn kẻ hậu học, vang danh một thời. Ba mươi năm thuyết pháp không biết mệt mỏi, phong cách cao nhã, giới hạnh tinh nghiêm. Mọi người cung kính, ngưỡng mộ không dám kêu tên mà chỉ gọi là “Thiền sư Phần Châu”. Sau khi mất hiệu là Vô Đức thiền sư. Tác phẩm: Phần Dương Vô Đức Thiền Sư Ngữ Lục truyền lại cho hậu thế.
Read moreBÍ DIỄN
BÍ DIỄN 秘演
(năm sinh năm mất không rõ)
Thiền sư đời Bắc Tống, người Sơn Đông. Sư giao hảo và xướng họa cùng Âu Dương Tu, Thạch Man Khanh. Âu Dương Tu từng viết lời tựa rằng : “Bí Diễn giao du với Man Khanh rất lâu. Man Khanh ẩn nơi quán rượu, Bí Diễn ẩn trong tháp Phật, đều là những trang nam tử kỳ lạ. Đối với tác phẩm của Bí Diễn, Man Khanh cho là có ý khỏe khoắn của thi nhân”.
Read moreVÂN PHONG VĂN DUYỆT
VÂN PHONG VĂN DUYỆT 雲 峰 文 悅
(997-1062)
Thiền sư đời Bắc Tống, thuộc đời thứ 11 phái Nam Nhạc. Người Nam Xương ở Giang Tây họ tục họ Trần đệ tử Phần Dương Thiện Chiêu, nối pháp ngài Đại Ngu Thủ Chi, mười chín tuổi dạo khắp vùng Giang hoài, khi qua núi Đại Ngu ở Cao An, nghe ngài Thủ Chi đăng tòa thuyết pháp, liền có chổ tỉnh, Ở Bí Phục, ngài siêng năng cần mẫn suốt 8 năm, cho đến khi ngài Thủ Chi tịch. Ngài từng trụ trì chùa Vân Phong, chùa Pháp Luân ở Nam Nhạc. Ngài tịch ở chùa Vân Phong, Tháp thờ ngài hiện nay vẫn còn trong chùa.
Read moreCHƠN TỊNH KHẮC VĂN
CHƠN TỊNH KHẮC VĂN 真 净 克文
(1025-1102)
Thiền tăng đời Tống, họ Trịnh, ở Thiểm Phủ, Văn Hương (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Khi ra đời rất dị thường, Mẹ mất sớm, tuổi thơ lẻ loi. Thờ kế mẫu rất chí hiếu, mẹ kế không thương, chịu nhiều điều khốn khổ. Cha già buồn thương nên khiến đi du học bốn phương. Năm 25 tuổi cạo tóc xuất gia thọ đại giới, học kinh luận đều đến chỗ vi diệu. Về sau, tham vấn dưới toà Hoàng Long Huệ Nam được truyền pháp mạch của Tông Lâm Tế. Nửa đêm, ngày 16, tháng 10, niên hiệu Sùng Ninh năm đầu ( 1102 ), sư thị tịch.
Read more
ĐỖ PHỦ
ĐỖ PHỦ 杜甫 (712-770) :
Tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng, vốn quê ở Tương Dương tỉnh Hồ Bắc, sau tổ phụ dời xuống ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam. Đi thi không đỗ nên chỉ giữ chức quan nhỏ. Khi có loạn An Lộc Sơn, ông chạy theo vua nên được cử làm gián quan. Sau vì bất mãn, ông xin từ quan về Tần Châu, Thành Đô. Không bao lâu, ở Tứ Xuyên có loạn, ông đưa gia đình đi cư sang Hồ Bắc, Hồ Nam, cuối cùng chết ở Lỗi Dương.
Read moreLý Bạch
Lý Bạch 李白(701- 762):
Thi nhân đời Thịnh Đường, tự Thái Bạch, người Thành Kỷ, Lũng Tây. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) ông đến Trường An, cốt gặp Hạ Tri Chương. Hạ Tri Chương thấy văn ông, khen rằng: “Đó là một trích tiên ( tiên bị đọa)”. Ông từng nhậm chức Hàn Lâm cung phụng. Vĩnh Vương Lý Lâm làm Đô Đốc Giang Lăng có mời ông ra làm việc tại phủ Đô đốc. Lý Lân làm loạn, bị thua ở Đan Dương và bị giết chết. Lý Bạch bị phát vãng đi Dạ Lang, ông được tha khi đến Vu Sơn Lý Bạch sùng phụng Đạo giáo, thích rượu mộ tiên. Thơ ông hào phóng, tự nhiên, là đại biểu điển hình của chủ nghĩa lãng mạn. Ông cùng với Bùi Mân (múa kiếm), Trương Húc (thư pháp) làm thành Tam tuyệt (Ba người siêu tuyệt), ông được người đời gọi là “Thi tiên”, có Lý Thái Bạch Tập, 30 quyển.
Qua chùa Hương Tích

Hương Tích chùa đâu nào,
Chỉ thấy núi mây cao.
Cổ thụ ven nẻo vắng,
Chuông nào ngân núi sâu.
Suối reo như làn điệu,
Thông xanh ánh trời chiều
Chiều hôm đầm nước vắng
An thiền, phiền não tiêu.
CHƠN KHÔNG CHỐN CŨ
Người đã bao lần sống ở đây Thiền hành từng bước, gió thu bay Hải triều vang dậy, tung cao sóng Tiếng hét lung lay bóng nguyệt đầy. Chiều nay về đến phương trời cũ Giũ áo tang bồng phơi tháng năm Gối đầu trên đá say nằm ngủ Vạn kỷ thu về khoảnh khắc tâm. |