Lý Bạch

Posted by tranminhhuydn on Thu, 01/09/2011 32:14

Lý Bạch 李白(701- 762):


Thi nhân đời Thịnh Đường, tự Thái Bạch, người Thành Kỷ, Lũng Tây. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) ông đến Trường An, cốt gặp Hạ Tri Chương. Hạ Tri Chương thấy văn ông, khen rằng: “Đó là một trích tiên ( tiên bị đọa)”. Ông từng nhậm chức Hàn Lâm cung phụng. Vĩnh Vương Lý Lâm làm Đô Đốc Giang Lăng có mời ông ra làm việc tại phủ Đô đốc. Lý Lân làm loạn, bị thua ở Đan Dương và bị giết chết. Lý Bạch bị phát vãng đi Dạ Lang, ông được tha khi đến Vu Sơn Lý Bạch sùng phụng Đạo giáo, thích rượu mộ tiên. Thơ ông hào phóng, tự nhiên, là đại biểu điển hình của chủ nghĩa lãng mạn. Ông cùng với Bùi Mân (múa kiếm), Trương Húc (thư pháp) làm thành Tam tuyệt (Ba người siêu tuyệt), ông được người đời gọi là “Thi tiên”, có Lý Thái Bạch Tập, 30 quyển.


1. 赠宣州灵源寺仲浚公
敬亭白云气,秀色连苍梧
下映双溪水,如天落镜湖
此中积龙象,独许浚公殊
风韵逸江左,文章动海隅
观心同氷月,解领得明珠
今日逢支遁,高谈出有无

Tặng Tuyên Châu Linh Nguyên tự Trọng Tuấn Công
Kính Đình bạch vân khí, tú sắc liên Thương Ngô.

Hạ ánh Song Khê thủy, như thiên lạc kính hồ.
Thử trung tích long tượng, độc hứa Tuấn Công thù.

Phong vận dật Giang Tả, văn chương động hải ngung.
Quán tâm đồng thủy nguyệt, giải lĩnh đắc minh châu.

Kim nhật phùng Chi Độn, cao đàm xuất hữu vô.

Tặng ngài Trọng Tuấn chùa Linh Nguyên ở Tuyên Châu

Thi nhân mở đầu bài thơ bằng cách tả cảnh đẹp Tuyên Châu.

Kính Đình bạch vân khí, tú sắc liên Thương Ngô mây trắng lởn vởn ở chùa Kính Đình, liên miên không dứt trên bầu trời xanh lơ kéo dài đến núi Thương Ngô. Dòng Song Khê lành lạnh trong vắt in phong cảnh đẹp đẽ của núi Kính Đình, trời xanh mây trắng cũng lồng bóng trong đó.

Thử trung tích long tượng, độc hứa Tuấn Công thù. Núi nầy có nhiều bậc long tượng tụ hội, mà ngài Trọng Tuấn là một vị thiền sư xuất sắc. Nơi ngài, phong độ khoan thai, khí vận khác phàm, văn chương vi diệu cao siêu, khuynh động vùng Giang Nam và công phu tu thiền cũng rất khác với người thường.

Quán tâm là then chốt của sự tu hành, trong sách “Thập Giới Nhị Môn” ghi: “Kinh điển cả đời đều lấy Quán tâm làm trọng”.

Thủy nguyệt (trăng đáy nước) là tỷ dụ mà kinh điển Đại thừa thường dùng. Ở đây chỉ cho quán sát tự tâm giống như trăng đáy nước, chẳng phải có chẳng phải không, hoàn toàn không nắm bắt được mà rõ ràng có diệu dụng. Giải lãnh đắc minh châu là khéo dùng thí dụ “viên minh châu trong chéo áo” để chứng tỏ thiền sư đã cởi xong cái áo phiền não, dùng được viên minh châu tự tánh. Viên ngọc này mỗi người đều có, ai ai cũng sẵn đủ, chỉ cần cởi phăng chiếc áo lập tức nhận được, từ đây dùng hoài không hết, chẳng bị nghèo khổ khốn đốn. Đây là khen ngợi cảnh giới thiền ngộ của ngài Trọng Tuấn.

Hai câu sau cùng, đem ngài Trọng Tuấn so sánh với danh tăng Chi Độn, thông qua việc đàm luận cao siêu, tiến thêm một bước là thuyết minh kiến giải của hai vị.

Cao đàm xuất hữu vô, chứng tỏ hai ngài đã lãnh hội diệu nghĩa về mối tương quan “Hữu” “Vô” trong Phật pháp, chẳng còn chấp trước.

Toàn bài thơ, từ cảnh đến người, nói lý rõ ràng, quả là một bài thơ hay.

Tặng ngài Trọng Tuấn chùa Linh Nguyên ở Tuyên Châu

Mây trắng Kính Đình bay,
Vẻ đẹp trải Thương Ngô,
Nước Song Khê phản chiếu,
Trời in bóng gương hồ.

Núi này nhiều long tượng,
Tuấn Công đứng nhất thôi,
Phong vận trùm Giang Tả,
Văn chương động góc trời.

Quán tâm như thủy nguyệt
Cởi áo được minh châu,
Ngày nay gặp Chi Độn,
Bàn luận vượt hữu vô

2. 庐山东林寺夜怀
我寻青莲宇,独往谢城阙
霜清东林钟, 水白虎溪月
天香生虚空,天乐鸣不歇
冥坐寂不动,大千入毫发
湛然冥真心,旷劫断出没

Lô Sơn Đông Lâm tự dạ hoài
Ngã tầm thanh liên vũ, độc vãng tạ thành khuyết.
Sương thanh Đông Lâm chung, thủy bạch Hổ Khê nguyệt.
Thiên hương sanh hư không, thiên lạc minh bất yết (hiết).
Minh tọa tịch bất động, đại thiên nhập hào phát.
Trạm nhiên minh chân tâm, khoáng kiếp đoạn xuất một.

Nhớ lại đêm ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn.
Hai câu đầu thuật lại việc thi nhân từ giã thành thị phồn hoa, một mình lên Lô Sơn, tìm chùa Đông Lâm thanh tịnh.
Sương thanh đông lâm chung, tiếng chuông chùa Đông Lâm thong thả điểm, như vén mở màn sương dày đặc của bầu trời đêm.
Thủy bạch Hổ Khê nguyệt, ánh trăng phản chiếu trên dòng Hổ Khê mặt nước êm đềm lấp lánh.
Trong khuôn viên chùa, không gian cực kỳ vắng lặng mát mẻ, quả thật là nơi tu hành lý tưởng.
Thiên hương sanh hư không, thiên nhạc minh bất hiết, ý tứ hai câu này là từ hoàn cảnh thiên nhiên mà đạt đến được lãnh vực Phật giáo. Hương trời (thiên hương) sực nức, nhạc trời (thiên nhạc) du dương. Âm thanh hòa với mùi hương khiến cho cảnh trí thêm thanh tịnh nhàn nhã. Ở đây cũng là lời khen ngầm vị cao tăng của chùa này. Bởi chỉ có Phạm hạnh tinh tấn, trí huệ cao thâm mới cảm ứng đến điềm lành hương trời, nhạc trời như thế. Bốn câu sau cùng, thi nhân thuật lại quá trình tham thiền ngộ đạo ở thánh địa Phật giáo này. Ảnh hưởng nơi hoàn cảnh, thi nhân cũng ngồi yên chẳng động, tiến vào thiền định. Trong thiền định dùng trí huệ quán chiếu lãnh ngộ đến cảnh giới vô ngại của cái lớn như thế giới Đại thiên và cái nhỏ như mảy lông. Đại thiên hay chứa mảy lông, mảy lông cũng có thể dung đại thiên. Như trong “Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tỳ-lô-giá-na”, bản dịch đời Tấn ghi: “ Trong một lỗ chơn lông an lập vô lượng cõi Phật, trang nghiêm thanh tịnh, rộng rãi”. “Vi tế tương dung an lập môn” thứ sáu trong Thập huyền môn do tông Hoa Nghiêm lập, cũng nói rộng về nghĩa này. Thi nhân tiến thêm một bước giải thích, chỉ cần lặng lẽ bất động là thầm hợp với chân tâm, là vĩnh viễn ra
khỏi luân hồi sanh tử. Kinh Lăng Nghiêm ghi: “Tất cả chúng sanh, từ vô thủy đến nay, sanh tử tiếp nối, đều do chẳng biết chơn tâm thường trụ”. Do đó, nếu phục đoạn được vọng tâm, thầm hợp chơn tâm, liền ra khỏi sáu nẻo sanh tử. Từ bài thơ này nhận định, Lý Bạch tuy tâm nghiêng về Đạo giáo, nhưng đối với Phật lý cũng có chỗ ngộ sâu.

Nhớ lại đêm ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn.
Tôi tìm chùa sen xanh,
Giã từ đô hội đến,
Đông Lâm, chuông vẹt sương,
Hổ Khê, trăng lấp lánh.

Thiên hương sực nức trời,
Thiên nhạc dìu dặt trổi,
Lặng yên ngồi bất động,
Mảy lông chứa thế giới,

Lặng lẽ hợp chân tâm,
Luân hồi nhiều kiếp khỏi.

view(1077)