Qua chùa Hương Tích

Posted by tranminhhuydn on Mon, 23/05/2011 09:09
VƯƠNG DUY
Hương Tích chùa đâu nào,
Chỉ thấy núi mây cao.
Cổ thụ ven nẻo vắng,
Chuông nào ngân núi sâu.
Suối reo như làn điệu,
Thông xanh ánh trời chiều
Chiều hôm đầm nước vắng
An thiền, phiền não tiêu.

 

VƯƠNG DUY (701-761) :

Thi nhân đời Thịnh Đường, tự là Ma Cật, người Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Nổi tiếng về thơ lại còn sành âm nhạc, giỏi về thư pháp và hội họa. Đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư hữu thừa. Ông là nhà thơ sơn thủy nổi tiếng, Tô Thức đã nói : Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa Ma Cật thấy trong họa có thơ.

Thơ ông lại nhuốm tư tưởng Phật giáo nên ông được gọi là Thi Phật.

過香積寺

不知香積寺,
數里入雲峰。
古木無人徑,
深山何處鐘。
泉聲咽危石,
日色冷青松。

薄暮空潭曲,
安禪制毒龍

Dịch âm:

Quá Hương Tích tự

Bất tri Hương Tích tự

Sổ lý nhập vân phong.
Cổ mộc vô nhân kính,
Thâm sơn hà xứ chung.
Tuyền thanh yết nguy thạch,
Nhật sắc lãnh thanh tùng.
Bạc mộ không đàm khúc,
An thiền chế độc long

Dịch xuôi:

Qua chùa Hương Tích

Toàn bài thơ, nhằm đưa người đọc trên đường đi vào chùa Hương Tích. Thi nhân đã dạo chơi trên con đường núi rất dài, nhưng chùa Hương Tích vẫn còn ở tại đỉnh núi xa. Mặc dù có chút vất vả, nhưng phong cảnh bên đường đã xua tan những cơn mệt nhọc. Những cây cổ thụ xanh tươi rậm rạp không rõ có tự đời nào che cả ánh sáng mặt trời, tạo ra một khoảng không gian mát mẻ bên dưới. Trên con đường nhỏ, không có người nào khác, chỉ mỗi nhà thơ đi lên chùa một cách thanh thản. Tiếng chuông văng vẳng từ xa đưa lại, tiến lên một bước là đến gần mục đích một chút. Lẫn trong tiếng chuông là tiếng suối róc rách trên đá phát ra điệu khúc an tâm. Ánh tà dương luồn qua rừng cây um tùm, khiến cho rặng thông xanh càng thêm lạnh lẽo. Bốn câu thơ này, từ sắc tướng đến âm thanh, rồi từ âm thanh đến sắc tướng mời gọi người đọc theo gót thi nhân lên núi vào chùa, thân tâm vui sướng như hòa tan trọn vẹn vào cảnh giới ấy. Vào đến chùa thì đã là chiều hôm. Trước chùa có đầm nước trong vắt không gợn sóng giống như nhà thơ lúc đó trong lòng lặng yên không xao động bởi bụi trần, con rồng độc tham sân si đã bị hàng phục bởi công phu tọa thiền đạt đến nhất tâm.

Bộ phận chính của toàn thể bài thơ là mô tả những cảnh sắc đã thấy trên đường, cuối cùng mới đem “An thiền chế độc long” để kết thúc. Những điều thấy nghe trên đường đến chùa đều là cảnh giới của người tu thiền mà không bi ngoại cảnh chi phối. Tuy tả cảnh mà kỳ thực là tả tâm, cũng tạm thời giúp cho người đọc hàng phục được con rồng độc tham sân si.

 

Dịch thơ:

Qua chùa Hương Tích

Hương Tích chùa đâu nào,
Chỉ thấy núi mây cao.
Cổ thụ ven nẻo vắng,
Chuông nào ngân núi sâu.
Suối reo như làn điệu,
Thông xanh ánh trời chiều
Chiều hôm đầm nước vắng
An thiền, phiền não tiêu.

view(887)