Trung Phong Minh Bổn
Trung Phong Minh Bổn
中 峰 明 本
(1263-1323)
Thiền sư đời Nguyên, tông Lâm Tế đời thứ mười chín, người Tiền Đường, họ Tôn, tên Hoan Trú, hiệu Trung Phong (Nay là Hàng Châu Triết Giang). Lúc nhỏ, Sư ở núi Thiên Mục yết kiến thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu, năm hai mươi bốn tuổi theo xuất gia với Cao Phong, sau Sư còn kế thừa pháp của thầy. Từ đó chỗ ở không nhất định, khi ở trên thuyền, hoặc ở am thất, Sư tự xưng là Hoan Trú đạo nhân, tăng tục chiêm ngưỡng lễ bái, thế gian khen ngợi là Cổ Phật Giang Nam. Sau ở núi Thiên Mục, Nguyên Nhân Tông từng triệu thỉnh vào trong Nội điện, Sư từ chối không nhận, chỉ nhận ca sa Kim Lan và hiệu “Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ Thiền sư”. Nguyên Anh Tông còn quy y với Sư. Cuối tháng tám niên hiệu Chí Hiệp thứ ba, Sư thị tịch, thọ thế sáu mươi mốt tuổi. Sư để lại bút tích nổi tiếng ở đời. Tác phẩm: Trung Phong Quảng Lục, ba mươi sáu quyển.
山 居 诗
头陀 真趣 在 山 林,世 人 谁 人 识 此 心.
宿 火 篆盘 烟 寂 寂,云开 窗 槛 月 沉 沉.
崖 悬 有轴 长 生 画,瀑 晌 无 弦 太 古 琴.
不 假 修治 常 具 足,未 知 归 者 漫 追 寻.
Sơn cư thi
Đầu đà chân thú tại sơn lâm, thế nhân thùy nhân thức thử tâm.
Túc hỏa triện bàn yên tịch tịch, vân khai song hạm nguyệt trầm trầm.
Nhai huyền hữu trục trường sanh họa, bộc hưởng vô huyền thái cổ cầm.
Bất giả tu trị thường cụ túc, vị tri quy giả mạn truy tầm.
Bài thơ Ở Núi này của ngài Trung Phong, diễn tả vị tăng tu hành khổ hạnh không dối, là đã đầy đủ ý nghĩa chân thật của tất cả Phật pháp. Phật và chúng sanh, tâm tánh vốn đồng, do phân biệt nên mê ngộ, khổ vui khác xa. Bởi chúng sanh quay lưng lại với tánh giác và chạy theo trần cảnh, nên bị vô lượng nghiệp phiền não mê hoặc, không hiển hiện được công đức trí tuệ, như nước do gió mà thành sóng. Chư Phật xoay trần trở về với tánh giác, phiền não hoặc nghiệp hết sạch không còn, đầy đủ vô lượng công đức trí tuệ, như sóng do gió dừng mà thành nước. Người đời không biết rõ tâm này, như vàng ở trong quặng, hạt châu ở trong áo, vì không biết rõ nên luống chịu nghèo khổ. Nếu gặp người trí, từ bi chỉ cho vật báu vốn có sẵn trong nhà là kho báu vô tận, tùy ý thọ dụng, từ nay được đại tự tại. Chúng ta chỉ cần dừng bước chạy tìm, xoay trở lại quán chiếu nội tâm, nhận ra bổn tánh, là mây tan ngoài cửa sổ thấy trời cao biển rộng vậy.
Thơ ở núi
Tu hạnh đầu đà chốn núi rừng
Thế nhân ai rõ được nguồn tâm
Trên đĩa bấc tàn khói lặng lẽ
Ngoài song mây tản nguyệt âm thầm .
Vách treo như bức tranh sống động
Thác vang tợ tiếng đàn diệu huyền.
Tu hành không dối thường đầy đủ,
Chẳng biết quay về mãi đuổi tìm.
Chú thích:
1- Đầu đà: Người tu hành khổ hạnh, còn gọi tinh tấn lìa các phiền não chấp trước.
2- Triện bàn: Khói hương khoanh hình chữ Triện.
3- Song hạm: Cửa sổ bên phía hiên lan can dài
4- Trục: Làm trung tâm hoặc đầu mối then chốt. Cả câu ý nói vách núi chơi vơi như bức tranh treo lơ lửng trên cây đinh một cách sống động.
5. Bộc hưởng vô huyền thái cổ cầm: Tiếng thác đổ tương tợ tiếng đàn không dây rất xưa (dụng của tự tánh).
6- Mạn: trống rỗng, phù phiếm