VIẾT TRÊN CAO
Sau tuần thất hai mươi mốt ngày của Ba, con về Tu viện Chân Không mà lòng còn trĩu nặng. Con được quý Thầy sắp xếp ở trong thất mà ngày xưa cách đây hai mươi năm Ba đã ở. Ôi! bao nỗi nhớ niềm thương hiện về trong tâm tưởng….
Con còn nhớ khi con xuất gia không bao lâu thì Ba cũng ra đến Tu Viện, và đến tháng 10 năm 74 thì cha con mình cùng thọ giới Sa di. Hình như cả gia đình mình cùng quay quần bênh Thầy, tại núi Tương Kỳ. Cuộc đời tu hành sum họp an vui đến thế, không ngờ đến tháng 6 năm 1975 lại có cuộc sinh ly: Ba mẹ về lại quê nhà, con và anh hai xuống Thường Chiếu. Thế rồi định nghiệp và thời gian cứ đẩy đưa….
Ngày xưa còn bé, con được Ba xếp loại ưu tiên một. Con làm sao quên được khi Ba hôn con, Ba thường lấy râu mép và râu cằm cà lên hai gò má làm con cười nắc nẻ, và Ba thường âu yếm con gọi con là “Út ít ụt ịt” của Ba. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi con càng ngài ngại Ba vì gương mặt lạnh lùng và cây roi mây ở tay Ba. Ba căn nhắc lời nói, chỉ nói khi cần và con hiểu là con lờn mẹ nên Ba cần phải nghiêm, mẹ lạt lòng nên Ba phải giữ gìn kỷ cương, mẹ chín bỏ làm mười, Ba phải cầm cân nảy mực. Tuy biết như thế, nhưng con vẫn sợ, tránh Ba và xa Ba cho đến lớn.
Mặc dù rất bận rộn trong công việc làm ăn, nhưng Ba vẫn quan tâm đến việc học hành của anh em chúng con. Đứa nào học giỏi Ba thưởng, còn đứa nào tệ lậu hì Ba trừng trị thẳng tay – Ba thường nói như thế. Con rất ngán ăn roi mây của Ba nên cố gắng học hành. Lúc chúng con còn nhỏ thì như vậy, chứ khi chúng con học hết cấp hai thì lại khác, Ba để chúng con tự do phát triển, tùy năng khiếu thích gì cho học nấy, Ba chỉ âm thầm theo dõi, cuối tháng xét phiếu điểm, cuối năm duyệt thành tích biểu. Cảm động nhất là khi chúng con đi thi lấy bằng: Sáng sớm Ba chở đi tiệm nước, điểm tâm xong Ba chở đến trường, dặn dò xem lại phiếu báo danh, lại trang bị cho hai cây viết máy, bình mực, compa, và không quên bỏ vào túi chúng con chai dầu gió để phòng bị xây xẩm, gói sâm cao ly để ngậm cho thêm sức và trí óc thêm minh mẫn. Thi xong, vừa bước ra cổng trường đã thấy Ba ngồi trên xe trực sẵn để rước chúng con về. Đến nhà Ba lấy “cung” ngay: Bài vở làm thế nào, về toán đáp số ra bao nhiêu, về văn có lạc đề không, cuối cùng thì Ba làm giám khảo chấm điểm cho chúng con luôn, phán rằng chú này hạn bình, chú kia hạng thứ v.v….Ngày công bố kết quả mới vui, sáng sớm Ba lấy xe chở chúng con đến trường, ngồi đợi để nghe nhà trường xướng danh. Thường thì anh em chúng con không làm cho Ba thất vọng về phương diện này.
Và chiều hôm đó Ba chở chúng con đi nhà hàng khao cho một chầu. Ba “o” những con gà nòi của Ba đến thế đó !
Viết đến đây con mạn phép thay mặt các anh chị con xin Ba tha lỗi cho chúng con vì đã phụ lòng mong ước của Ba nhiều lăm! Tuy học hành có giỏi song chúng con đâu làm được gì để báo đáp song thân, bởi vì chúng con vào chùa tu từ anh Hai cho đến Út. Đứng về lập trường Khổng giáo, chúng con có lỗi rất lớn, phải không Ba! Một lần nữa xin Ba tha lỗi cho chúng con, nha Ba!
Khi con ở tuổi trung niên thì Ba ở vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng đang hồi rệu rã. Ba hay nói với con: “Dạo này Ba nghe ‘bết’ lắm, hết đau nơi này lại nghe như nhéo nơi kia, trong mình Ba nghe ‘kỳ’ lắm!” bỗng nhiên một hôm Ba đột quỵ, nghe điện anh em con về đủ, cấp cứu cho ba kịp thời, Ba bình phục được. Chúng con ai về chùa nấy. Thế rồi, một sáng nọ con được điện về gấp để săn sóc Ba, Ba muốn vậy. Trong thời gian này, Ba yêu cầu làm cho Ba hai việc: Một xây cho Ba kim tĩnh trong vườn nhà. Hai, trong anh em chúng con phải có đứa viết lại cuộc đời Ba. Việc trên các anh con đã lo xong, riêng con xin lãnh phần còn lại, nhưng con xin thưa thật điều này: Chị con có trái tim với tần số rung cảm tuyệt vời và có một ngọn bút tài tình nên khắc họa chân dung mẹ của chúng con thật đẹp, còn con thì bất tài nên mạn phép cầm bút phác họa những nét chính của Ba thôi.
Phải nói rằng Ba quả là hiện thân của lý trí: Hiểu biết rộng, phán đoán vững, có lập trường kiên định, do đó làm nên sự nghiệp và an nhàn cho đến tuổi già. Chúng con được Ba cho ăn học nhiều nhưng chắc gì đã hơn Ba, bằng chứng là khi chọn đất làm kim tĩnh, Thầy địa lý chỉ đúng ngay vị trí và phương hướng mà Ba đã định. Xót xa nhất và cũng đáng phục nhất là khi bệnh nbệnh, vì sợ chúng con khổ vì hầu hạ lâu ngày nên Ba kiên quyết không ăn, nằm mỏi mòn chờ chết. Ôi! hình ảnh của Ba trong cơn hấp hối ghi đậm nét trong lòng con thành một dấu ấn khó phai. Con xin được phép mang theo trong hành trang của mình để làm đề tài quán niệm giữa những cơn bức bách của niệm lợi danh và niềm khát ái.
Trong đời, con cũng đôi khi cãi lại Ba, tỏ vẻ kiêu ngạo với Ba. Ba cho con được sám hối, Ba hỡi! Vì lẽ như Newton đã nói: “Nếu tôi nhìn được xa hơn những người khác, thì đó là vì tôi đứng trên vai các bậc khổng lồ”. Ơ đây, bậc khổng lồ chính là Ba của con vậy.
Ba là người tạo dựng hình hài, nuôi con khôn lớn và trang bị kiến thức cho con. Ôi! Công lao ấy to tát biết bao. Tình yêu thương nồng ấm của Ba cho đến nay con vẫn còn hình dung ra, cảm nhận được, dù Ba vĩnh viễn xa con rồi! Song, người hun đúc rèn luyện con, khai mở nhãn quang xuyên phủng đất trời, giúp con có được phong cách sống vững mạnh, an nhiên giữa cuộc đời ….lại chính là Thầy của con. Nếu không gặp được Thầy, có lẽ con không được như ngày nay. Ba còn nhớ tháng 10 năm 1973 con từ bỏ áo thư sinh, một mình lên núi, làm cả nhà hốt hoảng đi tìm. Thì ra con đến và ở lại với Thầy. Và độ một năm sau thì cả nhà mình đều tụ hội dưới chân Thầy, sống nhờ ân đức của Thầy.
Chân Không là ngưỡng cửa con bước vào đạo, cũng là nơi con tập tành học hỏi về Thiền…..
Thường Chiếu vào những năm 75 -80, đối với con có khác nào thao trường đâu! Chính nơi đây con ra đi, và trước ngày con lên đường mấy hôm, Ba ra Thường Chiếu thăm con, hai cha con mình tâm sự suốt đêm. Ngày đăng trình, con mang theo vỏn vẹn chiếc nón lá, bộ đồ vạt mẻ mặc trên mình, nhưng còn có ba món quý báu, đó là: Lời dạy của Thầy, lời dặn dò của Ba, bài tâm ca của anh Đ.H. tất cả giống như lời nguyền khắc trên báng súng, vẫn ngân vang theo nhịp bước quân hành.
Những bản hùng ca theo bước chân người lính dù có tuyệt vời, dù dòng thơ văn hiện thực Xô Viết có làm cho tuổi xuân con háo hức, say mê với tình yêu cuộc sống đến đâu đi nữa, nhưng một khi trở về Thường Chiếu thì con bỏ nó lại sau lưng, gởi nó theo mây gió phiêu bồng. Chính trong thời gian này, con đọc được tự truyện của ngài Hám Sơn, trong đó có đoạn:
Cà sa cởi lớp đổi nhung trang,
Tùy tiện nơi đâu cũng đạo tràng,
Dẫu gặp cảnh duyên dường lửa đỏ,
Tấm lòng băng tuyết dễ chi tan.
Phong cách sống của Ngài hào hùng biết mấy, nhưng con không được như Ngài đâu, bạch Thầy! Con rất ủ ê và hết sức gắn gượng khi đi giữa lòng cuộc sống ! Con luôn mến thích vẻ hùng tráng của núi rừng, cảnh thanh tịnh của già lam, có thể nói là con không “hạp” với sinh hoạt của thế gian, dù cố gắng hội nhập, tiêu dung ….gì gì đi nữa. Tóm lại là trình độ của con chưa đủ sức để:
Lộ hung tiễn túc nhập triền lai,
Phù thổ đồ khôi tiếu mãn tai…
Chân trần bày ngực chốn chợ đời,
Gặp cảnh trần lao vẫn thấy vui…)
Mà vì căn lành mỏng, nghiệp chướng sâu nên đường tu giữa chừng bị trục trặc và phải gồng mình chịu đựng. Con chỉ được cái may mắn là yêu Phật hơn yêu “người ấy”, nên mới còn trở về với đạo. Tự nhiên trong con, hình tượng uy nghi khả kính của đấng Từ Tôn, phong cách cao thượng, từ ái của Ngài như trong kinh thường miêu tả, choáng hết tâm tư con và con được lành lặn trở về. Ôi, kỳ diệu thay chánh pháp !
Lần thứ hai vì thương anh Đ.H và hiểu lầm Thầy mà con tự xa rời Thường Chiếu với cõi lòng tan nát, với tâm trạng của Spinoza khi rời bỏ quê hương của mình. Đứng trước cây số 71, con bỗng nghe “thống tâm tật thủ”, và khi xe chuyển bánh xa dần Thường Chiếu cũng là lúc những giọt lệ nóng đang lăn dài trên má của hai anh em.
Chuyến ra đi lần này dài hơn chuyến trước và chúng con gặp phải phong ba bão táp nhiều hơn vì đã làm thương tổn đến Thầy. Con xin cúi đầu sám hối trước Thầy, xin thầy tha tội. Cái tội nông nổi không kịp nghĩ suy !
Tai họa lớn nhất là lúc anh con lập gia đình, biết bao biến cố dồn dập xảy đến gia đình ba mẹ chúng con. Riêng con thầm nghĩ: Mình làm thì mình chịu và luôn nhớ đến câu nói của C. Bô Ư Vi: “Tai họa giống như chiếc búa của người thợ rèn, nó giáng xuống tức là đang rèn đấy !” Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh, lúc đó nó trở nên cứng rắn lạ thường. Trong những thử thách của cuộc đời, con cũng đã được tôi luyện như vậy và đã không bị ngã gục trước cuộc sống.
Thế rồi:
Cửu vi phong thể,
Kiều ký hoang thôn,
Thân tuy thiên ngoại chi sâm thương,
Y hữu kính trung chi loan phượng.
(Thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ)
Thầy ở miền đông, con miền tây,
Hằng xa phong thái nhớ nhung đầy,
Dù cho ngăn cách đường ngàn dặm,
Chỉ một tâm này – ai có hay?
Con luôn tâm niệm rằng sẽ về lại với thầy và nhất định là ngày ấy không xa.
Sau những tháng ngày miệt mài học tập nhất là sau ngày “Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc”, con lại xách gói một mình âm thầm lên non như hai mươi hai năm về trước….
Giờ phút này, con ngồi đây, trên cao, viết về tấm lòng của biển. Càng lên cao, nhìn thấy biển càng mênh mông; cũng như con càng lớn, được học hỏi nhiều, chiêm nghiệm sâu, con càng cảm nhận ra tấm tình bát ngát của Ba, tình thương bao la của Thầy. Ngoài kia, nơi xa khơi, gió mát không ngừng thổi vào, con hân hoan đón nhận và thành kính cúi đầu cảm ơn, cảm ơn mãi mãi….]
0 Comments
Add new comment