TƯ TƯỞNG THIỀN TRÚC LÂM
Tham luận Hội thảo “Huyền Quang Tôn giả - Đệ tam tổ Thiền phái Trúc Lâm và Phật giáo thời Trần”
TƯ TƯỞNG THIỀN TRÚC LÂM
QUA THI CA HUYỀN QUANG
I.DẪN NHẬP
Ở nước ta vào triều Trần là thời đại hoàng kim của Thiền và Thơ nên có sự dung hợp giữa Thiền tông và thi ca. Nguyên Hiếu Vấn, một nhà nhà thơ Trung Quốc cuối nhà Kim đầu nhà Nguyên.đã nói: “Thơ là áo gấm thêu hoa của Thiền khách, Thiền là chiếc dao gọt ngọc của Thi gia”. Chúng ta thấy câu nói này ứng với trường hợp của Đệ tam tổ Huyền Quang, một thiền sư kiêm thi sĩ.
- Thiền là chiếc dao gọt ngọc của Thi gia: Khi Thiền phong hưng thịnh, thi gia đem thiền vào thơ, dung hợp thiền lý với thi luận ánh sáng: Thi sĩ Lý Tải Đạo (李載道).
- Thơ là áo gấm thêu hoa của Thiền khách: Vào thời cực thịnh của thơ, thiền nhân dùng thơ tả thiền: Thiền sư Huyền Quang.
Chúng ta thử khảo sát Huyền Quang, Đệ tam tổ Trúc Lâm đã dùng thi ca chuyển tải đạo lý của Thiền phái Trúc Lâm như thế nào?
- BỐI CẢNH LỊCH SỬ
- Con người của Đệ tam tổ:
Tổ sinh vào năm 1254, tướng mạo khác thường, phong thái vượt trội, mang chí lớn của bậc đại nhân. Cha mẹ vô cùng yêu thương, dạy dỗ con học văn nghệ, trí tuệ thông minh đến mức nghe một biết mười, được ví như Nhan Tử, Á Thánh của thời xưa. Song thân đặt tên cho con là Tải Đạo.
Năm 20 tuổi, Tổ dự kỳ thi hương, nổi danh vì tài học của mình. Khi đạt danh hiệu cao trong kỳ thi nhỏ, Tổ tự kỳ vọng sẽ thành công trong các kỳ thi lớn hơn vào năm sau. Thực sự, trong kỳ thi hội, Tổ đỗ đầu bảng. Tuy nhiên, khi còn trẻ, cha mẹ Tổ từng bàn chuyện hôn nhân, nhưng chưa quyết định cưới hỏi. Đến thời điểm này, hoàng đế ban lệnh gả Tổ cho tiểu thư họ Lưu, cháu gái của vương tôn. Tổ từ chối và không nhận, thay vào đó chọn cuộc sống khiêm nhường, tách biệt.
Tổ được mời vào làm việc tại nội các, tiếp xúc với các công văn của triều đình và ngoại giao, trả lời lưu loát bằng cách dẫn giải kinh điển và ý nghĩa sâu sắc. Văn chương của Tổ xuất sắc, danh tiếng lan đến các nước lân bang.
Một lần, Tổ theo vua đến huyện Phượng Nhãn, tới chùa Vĩnh Nghiêm, gặp quốc sư Pháp Loa đang giảng pháp. Ngay lập tức, Tổ cảm nhận duyên tiền định, lòng kính ngưỡng dâng trào và than rằng: ‘Làm quan là như bước lên đảo Bồng Lai, nhưng đắc đạo thì đến được núi Phổ Đà. Bậc xuất chúng sống giữa đời, đó là cảnh giới Tây Thiên, nơi của Phật. Vinh hoa phú quý, suy cho cùng, cũng chỉ như lá đỏ mùa thu hay mây trắng mùa hạ, làm sao lưu luyến mãi được?’
Vì thế, Tổ nhiều lần dâng sớ xin từ quan, cầu mong được xuất gia, tu hành, học đạo. Khi đó, triều đình tôn sùng Phật giáo, Tổ được vua chấp thuận. Sau đó, Tổ thọ giáo với thiền sư Pháp Loa, được ban pháp hiệu là Huyền Quang."
Vua thường lấy làm lạ bảo: “Tướng người này có đạo nhãn có thể là bậc pháp khí, bậc Thánh Tăng chân chánh vậy.” Rồi Tổ phụng mệnh vua trụ trì chùa Vân Yên, núi Yên Tử. Tổ đọc nhiều, học rộng tinh thông Phật pháp; Tăng, Ni theo học kể đến hàng nghìn . Từ ấy, Điều Ngự Giác Hoàng cùng Pháp Loa, Huyền Quang, ba Thiền sư đi khắp các chùa danh tiếng trong nước. Điều Ngự ban cho Sư pháp tòa trầm hương để giảng kinh cho đồ chúng, lại ra lệnh cho Sư soạn Chư Phẩm Kinh và Công Văn Tập v.v… và ngự bút phê vào Thích Khoa Giáo: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”, rồi Vua sai thợ đem in để truyền cho đời, và ban thưởng vàng bạc vô số.
Ngày rằm tháng giêng năm Quý Sửu (1313), Sư về kinh thăm vua, rồi đến chùa Báo Ân giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư cư trú núi Thanh Mai sáu năm, rồi về trụ trì Côn Sơn đọc tụng kinh điển, và lập ra đài Cửu phẩm liên hoa, để lại cho kẻ hậu học. Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Sư viên tịch tại chùa Côn Sơn. Đến ngày 24, tin tức mới về tới làng Vạn Tải, nên dân làng lấy ngày này làm ngày giỗ Tổ. Vua Minh Tông cúng mười lượng vàng, bảo Tăng, Ni môn đồ xây tháp ở bên trái phía sau chùa; và cấp 150 mẫu ruộng gồm nhiều nơi để lo việc kỵ giỗ. Đồng thời ban tên Thụy là “Trúc Lâm Thiền Sư đệ tam đại, đặc phong tự pháp Huyền Quang Tôn giả”.
Trong bài tựa của Tam Tổ Thực Lục có lời tán thán Tổ như sau: “ Người kế thừa pháp, bài văn đẹp như gấm lụa, tài hoa như người dệt trong một gia đình giỏi nghề. Xuất chúng vượt bậc, có tài năng như bậc Á Thánh. Giới luật nghiêm minh, ba học (giới, định, tuệ) siêng năng và tinh chuyên, nổi bật với đức hạnh của một vị thần tăng. Quả thật danh tiếng vang xa tên gọi là Tải Đạo, văn phong đích thực xứng đáng được tôn kính và quý trọng”.
- Thiền phái Trúc Lâm thời Đệ tam tổ:
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một trường phái Thiền tông độc đáo và đặc trưng của Việt Nam, được sáng lập bởi vua Trần Nhân Tông vào cuối thế kỷ XIII. Thiền phái này tổng hợp ba dòng thiền đã có từ trước là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông cùng Thảo Đường, và cách truyền bá văn hóa Thiền lại chịu ảnh hưởng từ thiền phái Thảo Đường đời Lý là thiền phái thiên về thi ca. Trong thời Đệ tam tổ Huyền Quang, Thiền phái này tiếp tục phát triển và có những điểm đặc biệt sau:
2.1. Kế thừa và phát triển truyền thống Thiền Việt
Huyền Quang (1254–1334), tên thật là Lý Tải Đạo, là vị Đệ tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Tổ tiếp nối tinh thần nhập thế của vua Trần Nhân Tông, kết hợp tư tưởng Thiền với tinh thần dân tộc Việt Nam, làm cho Thiền Trúc Lâm vừa gần gũi với đời sống thường nhật, vừa sâu sắc về đạo pháp.
Tổ nhấn mạnh việc dung hòa giữa đời sống thế tục và đời sống tu hành, đưa Thiền học đến gần hơn với mọi tầng lớp xã hội, không chỉ giới hạn ở giới tu sĩ.
2.2. Kết hợp giữa Thiền và văn hóa Nho giáo, Đạo giáo
Thời kỳ của Huyền Quang đánh dấu sự hòa quyện giữa ba tư tưởng lớn: Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Đây là đặc điểm nổi bật trong triết lý Thiền Trúc Lâm. Bên cạnh thiền học của Thiền phái Trúc Lâm thấm nhuần trong máu huyết, Huyền Quang, vốn xuất thân là một nhà Nho lỗi lạc, đã sử dụng vốn học thức phong phú để phát triển Thiền phái, làm phong phú thêm tư tưởng và thực hành Thiền. Thứ đến, tính phiêu dật trong thi ca của Tổ phản ánh một phần tư tưởng Lão Trang nơi Đệ tam tổ như trong bài “Nhân sự đề Cứu Lan tự”
2.3. Thực hành tu hành hướng nội và nhập thế
Huyền Quang nhấn mạnh sự thực hành tu tập, thiền định để đạt được giác ngộ. Tuy nhiên, Tổ cũng khuyến khích các đệ tử và tăng ni tham gia vào đời sống xã hội để hoằng dương Phật pháp. Tổ là một tấm gương sáng về đời sống giản dị, hòa nhã, và gắn bó mật thiết với nhân dân.
2.4.Đóng góp lớn về văn học và tư tưởng
Huyền Quang là một nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác mang tính chất Thiền học và giáo dục đạo đức. Thơ văn của Tổ thường gợi cảm giác thanh thoát, nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa triết lý sâu sắc. Các tác phẩm tiêu biểu như Ngọc tiên tập, rất tiếc đến nay không còn từ khi nhà Minh xâm lăng nước ta.
2.5. Phát triển trung tâm Thiền Yên Tử
Thời kỳ Đệ tam tổ Huyền Quang, Yên Tử tiếp tục là trung tâm Phật giáo lớn của Đại Việt, thu hút đông đảo người tu học. Tổ có vai trò quan trọng trong việc duy trì và củng cố vị thế của Yên Tử trong lòng Phật giáo Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Huyền Quang, Thiền phái Trúc Lâm không chỉ kế thừa tinh thần của hai vị tổ trước (Trần Nhân Tông và Pháp Loa) mà còn có những bước phát triển mới, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam qua các khía cạnh sau:
a. Gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội
Huyền Quang tiếp tục tinh thần nhập thế của Trần Nhân Tông và Pháp Loa, coi trọng việc hòa nhập đạo với đời. Ông khuyến khích thực hành Thiền trong đời sống thường ngày, hướng đạo Phật phục vụ cộng đồng và đất nước, điển hình là Huyền Quang cùng các thiền sư Trúc Lâm khác thường đóng vai trò cố vấn chính trị cho triều đình nhà Trần. Tổ và các thiền sư không chỉ tập trung vào lĩnh vực tôn giáo mà còn góp ý, hỗ trợ các vua Trần trong việc quản lý đất nước, đề xuất chính sách hòa hợp xã hội và củng cố khối đoàn kết dân tộc.
Thiền phái không chỉ tập trung vào việc tu hành mà còn hỗ trợ các hoạt động xã hội, từ thiện, giúp đỡ người dân trong các hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt trong các biến cố lớn như thiên tai, chiến tranh như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) – trung tâm lớn của Thiền phái Trúc Lâm – thường xuyên tổ chức phát chẩn, hỗ trợ lương thực và chỗ ở tạm thời cho người dân bị ảnh hưởng bởi lũ lụt hoặc hạn hán. Các thiền viện và chùa chiền của Trúc Lâm đã trở thành nơi ẩn náu và cung cấp lương thực cho quân đội và người dân trong thời chiến.
b. Phát triển văn hóa và giáo dục Phật giáo
Huyền Quang chú trọng việc truyền bá giáo lý Phật giáo thông qua sáng tác thơ văn và trước tác, làm phong phú thêm kho tàng văn học dân tộc. Các tác phẩm của Tổ không chỉ phản ánh triết lý Thiền mà còn thấm nhuần tinh thần yêu nước và nhân văn.
Tổ cũng tập trung đào tạo tăng đồ, mở rộng mạng lưới chùa chiền, xây dựng các trung tâm đào tạo Phật học. Thiền sư Huyền Quang đã hoằng pháp tại nhiều địa điểm quan trọng gắn liền với sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm, bao gồm chùa Quỳnh Lâm, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Lân, chùa Côn Sơn, và chùa Thanh Mai, giúp lan tỏa tư tưởng Thiền Trúc Lâm đến khắp mọi miền đất nước. Trong Tam Tổ thực lục, trong phần nói về Đệ tam tổ có ghi:” Tổ đọc nhiều, học rộng tinh thông Phật pháp; Tăng, Ni theo học kể đến hàng nghìn.”
Đề cao tính tự lực và bản sắc Việt Nam trong Phật giáo
Huyền Quang nhấn mạnh tính tự lực và tinh thần "tự giác ngộ" trong hành trình tu tập, thay vì phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài hay các hình thức nghi lễ nặng nề. Đây là một điểm nhấn mang đậm bản sắc của Thiền phái Trúc Lâm.
Tổ duy trì và phát triển tư tưởng Phật giáo mang tính bản địa hóa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo lý Phật giáo với truyền thống văn hóa Việt Nam, góp phần tạo nên một dòng Thiền thuần Việt, không bị đồng hóa bởi các trường phái ngoại nhập, chẳng hạn như: Huyền Quang tiếp nối và phát triển tư tưởng "Cư trần lạc đạo" của Trần Nhân Tông, nhấn mạnh việc hòa hợp giữa đời sống thế tục và tu hành. Tư tưởng này rất gần gũi với người Việt, vì nó không đòi hỏi phải từ bỏ cuộc sống gia đình hay xã hội để tìm kiếm sự giác ngộ. Huyền Quang đã góp phần sử dụng ngôn ngữ và biểu đạt văn hóa thuần Việt trong các tác phẩm và bài giảng của mình. Thay vì lệ thuộc vào kinh điển chữ Hán, Tổ đưa vào các sáng tác của mình hình ảnh, ngôn từ và tư tưởng gần gũi với văn hóa Việt Nam như cây trúc, con đò, mái chùa, và đồng lúa. Điều này giúp Phật giáo trở nên dễ hiểu và gần gũi hơn với người dân.
Huyền Quang cùng các vị tổ khác của Thiền phái Trúc Lâm đã thiết lập một hệ thống tổ chức chặt chẽ, độc lập và không lệ thuộc vào các trường phái Phật giáo ngoại nhập từ Trung Quốc hay Ấn Độ. Ông đào tạo tăng ni, xây dựng các chùa chiền như trung tâm văn hóa và tu học phù hợp với hoàn cảnh Đại Việt.
Các thiền viện như chùa Vĩnh Nghiêm, Yên Tử không chỉ là nơi tu tập mà còn là trung tâm giáo dục và văn hóa lớn, nơi sản sinh ra các thế hệ thiền sư tiếp nối tinh thần Phật giáo Trúc Lâm. Tam Tổ thực lục ghi rằng:” Điều Ngự Giác Hoàng cùng Pháp Loa, Huyền Quang, ba Thiền sư đi khắp các chùa danh tiếng trong nước. Điều Ngự ban cho Sư pháp tòa trầm hương để giảng kinh cho đồ chúng, lại ra lệnh cho Sư soạn Chư Phẩm Kinh và Công Văn Tập v.v…”
Nhờ những đóng góp đó, Huyền Quang đã góp phần định hình Thiền phái Trúc Lâm thành một dòng Thiền mang đậm bản sắc Việt, gần gũi với đời sống người dân, và không bị đồng hóa bởi các trường phái Phật giáo ngoại nhập. Đây là một thành tựu đặc sắc của Phật giáo Đại Việt, giúp nó phát triển bền vững và có sức sống lâu dài trong văn hóa dân tộc.
c. Xây dựng sự hòa hợp giữa các tầng lớp trong xã hội
Thiền phái Trúc Lâm dưới thời Huyền Quang tiếp tục đóng vai trò kết nối giữa triều đình, giới trí thức, và tầng lớp nhân dân, tạo nên một xã hội đoàn kết trên nền tảng đạo đức và tinh thần từ bi, trí tuệ. Điều này được thể hiện qua các hoạt động và đóng góp cụ thể: Huyền Quang giúp Phật giáo trở thành cầu nối giữa triều đình và nhân dân, củng cố lòng trung thành và sự đoàn kết xã hội. Giáo lý của ông nhấn mạnh tinh thần hòa hợp, tôn trọng lẫn nhau giữa các tầng lớp. Tổ khuyến khích vua chúa thực hành đạo từ bi và xem người dân như con, đồng thời dạy người dân tuân theo các giá trị đạo đức, thực hành lòng biết ơn và sự kính trọng đối với người lãnh đạo. Các lễ hội và nghi lễ Phật giáo, như lễ cầu quốc thái dân an, thường được tổ chức với sự tham gia của cả triều đình và nhân dân, tạo nên không khí đoàn kết và hòa hợp. Trong Tam Tổ thực lục có ghi:” Sư liền sắm sửa hành trang,dâng biểu xin phép về làng thăm viếng. Nhân đó, lập một ngôi chùa ở phía Tây nhà, nằm ở phía Đông chùa Ngọc Hoàng, đặt tên chùa là Đại Bi, lấy ý từ câu “Đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ-tát cứu độ cha mẹ quay về đạo Phật”, nên có tên là chùa Thầy. Lại nói về việc Sư khai sơn ngôi chùa ấy, từ Thiên tử đến thứ dân đều góp công đức bằng vàng bạc của cải không thể kể hết. Khi chùa hoàn thành, Sư mở pháp hội lớn, bốn phương vân tập về đó xem hội hàng muôn nghìn người. Sau bảy ngày (53b) đêm hoàn mãn, Sư đem những tiền của còn lại công đức cho Tăng, Ni các đạo tràng và bố thí cho những kẻ nghèo đói thiếu thốn.”
Những bước phát triển này không chỉ giúp Thiền phái Trúc Lâm trở thành dòng Thiền đặc trưng của Việt Nam mà còn tạo nên một sức sống lâu dài, góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hóa và tư tưởng của dân tộc.
Tổ là một biểu tượng của sự kết hợp giữa trí tuệ, đức hạnh và lòng từ bi trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
II. THỂ LOẠI THƠ ĐƯỢC TỔ HUYỀN QUANG VẬN DỤNG
Tổ Huyền Quang là một nhà thơ lớn của thời Trần, không chỉ nổi tiếng với vai trò là vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, mà còn với những đóng góp quan trọng cho nền văn học Phật giáo Việt Nam. Trong các tác phẩm của mình, tổ Huyền Quang đã vận dụng nhiều thể loại thơ, đặc biệt là những thể thơ gắn liền với tư tưởng Thiền và văn hóa thời đại. Thơ của Tổ được các nhà phê bình đời trước như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đánh giá là “ý tinh tế, cao siêu, lời bay bướm, phóng khoáng”.Dưới đây là các thể loại thơ mà Tổ sử dụng:
1. Thơ Đường luật
Thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt: Đây là hai thể loại thơ phổ biến trong văn học thời Trần, và Huyền Quang đã sử dụng chúng để biểu đạt tư tưởng Thiền học cũng như cảm xúc về thiên nhiên và cuộc đời.
Đặc điểm trong thơ Đường luật của Tổ là chặt chẽ về niêm luật, sử dụng hình ảnh giàu tính biểu cảm. Nội dung thường hướng về triết lý sâu sắc, gắn bó với tâm hồn và đạo lý.
1.1. Thất ngôn bát cú:
Như bài Diên Hựu tự (延祐寺)
1.2. Thất ngôn tứ tuyệt:
Như các bài thơ: 6 bài Cúc Hoa(花菊), Sơn vũ (山雨), Thạch thất (石室) , Tặng sĩ đồ tử đệ (贈士徒子弟), Nhân sự đề Cứu Lan tự (因事題救蘭寺), Xuân nhật tức sự (春日即事), Phiếm chu (泛舟) , Đề động Hiên đàn việt giả sơn (題洞軒壇越假山), Tảo thu (早秋), Địa lô tức sự (地爐即事), Chu trung (舟中), Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề (次寶慶寺壁間題), Mai hoa (梅花), Trú miên (晝眠), Ai phù lỗ (哀扶魯), Quá Vạn Kiếp (過萬劫), Đề Đạm Thủy tự (題淡水寺)… Phần lớn Tổ tả cảnh thiên nhiên núi Yên Tử và ghi lại những cảm xúc của mình khi vân du đây đó, với hình ảnh khơi gợi sự thanh tịnh và giác ngộ.
1.3. Ngũ ngôn tứ cú:
Ngọ thụy (午睡), bài thơ thể hiện sự thanh tịnh, hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, đồng thời phản ánh tinh thần nhàn nhã, siêu thoát của Tổ Huyền Quang.
1.4. Ngũ ngôn bát cú:
Yên Tử sơn am cư (安子山庵居), bài thơ thể hiện sự thanh tịnh và hòa hợp giữa con người với thiên nhiên ở núi Yên Tử, đồng thời bộc lộ triết lý sống nhàn, siêu thoát của Thiền phái Trúc Lâm.
1.5. Phú:
Vân Yên tự phú (雲煙寺賦), bài phú ca ngợi vẻ đẹp thanh tịnh, yên bình của chùa Vân Yên, đồng thời thể hiện tư tưởng Thiền sâu sắc về sự tĩnh tại và giác ngộ trong cảnh sắc thiên nhiên.
2. Thơ Thiền
Đây là thể loại thơ đặc trưng của các thiền sư, với nội dung tập trung vào các đề tài Thiền học như giác ngộ, giải thoát, vô thường, và bản chất của tâm. Đặc điểm thơ thiền của Đệ tam tổ là: Ngôn ngữ ngắn gọn, cô đọng, đôi khi mang tính ẩn dụ và biểu tượng, nhằm dẫn dắt người đọc suy ngẫm sâu hơn. Kết hợp giữa tư tưởng triết học Phật giáo và cảm xúc nhẹ nhàng về thiên nhiên.
Thơ Thiền của Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, mang đậm tư tưởng Phật giáo và Thiền tông. Các tác phẩm của Tổ kết hợp hài hòa giữa triết lý giác ngộ, sự thanh tịnh, và vẻ đẹp thiên nhiên, đồng thời thể hiện phong thái nhập thế và siêu thoát.
Trong thi ca, các thiền sư hay dùng thể ẩn dụ như để chỉ về cái bất sinh bất diệt, thiền sư Mãn Giác dùng hoa mai, “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước nở nhành mai” thì ở đây, Huyền Quang lại dùng hoa cúc. Dưới đây là số bài “Cúc hoa kỳ 6” chính là bài thơ Thiền tiêu biểu của Tổ:
菊花其六
春來黃白各芳菲,
愛艷憐香亦似時。
遍界繁華全墜地,
後彫顏色屬東籬。
Cúc hoa kì lục
Xuân lai hoàng bạch các phương ,
Ái diễm liên hương diệc tự thi.
Biến giới phồn hoa toàn trụy địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông li.
Cúc hoa kỳ lục
Mùa xuân đến, vàng trắng đều đua nhau khoe sắc,
Yêu vẻ đẹp, thương mùi hương, nhưng cũng chỉ trong thời gian ngắn.
Khắp nơi rực rỡ hoa, rồi cũng rụng xuống đất,
Nhan sắc tàn phai cuối cùng là thuộc về hàng rào phía Đông.
Hoa cúc kỳ sáu
Xuân về vàng trắng ngát muôn nơi,
Yêu sắc, thương hương, thời khắc trôi.
Khắp chốn huy hoàng rồi khô héo,
Giậu Đông hoa cúc chửa tàn phai.
Xuân đến hoa vàng hoa trắng đều ngát thơm, thông thường các loài hoa có điểm chung giống nhau là vẻ đẹp thì đáng yêu, hương thơm thì đáng chuộng. Nhưng khi các loài hoa tươi tốt khắp nơi đều đã tàn rụng, thì nhan sắc phai nhạt sau cùng là bông hoa ở giậu phía đông, và đó là hoa cúc, há không phải chỉ cho tự tính của mỗi người sao!
Đặc điểm Thơ Thiền của Huyền Quang nội hàm tư tưởng Thiền tông: Thơ tập trung vào sự giác ngộ tự tính, vô chấp, tự tại, và bản chất vô thường của thế giới. bên cạnh đó là hình ảnh thiên nhiên: Thiên nhiên thường được sử dụng để thể hiện tư tưởng siêu thoát và hòa hợp giữa con người với vũ trụ. Tổ dùng ngôn từ giản dị nhưng sâu sắc: Thơ của Tổ dễ hiểu nhưng hàm chứa triết lý sâu xa, mời gọi người đọc suy ngẫm.
3. Thơ Nôm
Mặc dù thơ Huyền Quang chủ yếu được sáng tác bằng chữ Hán, nhưng Tổ cũng viết một số bài bằng chữ Nôm, thể hiện tư tưởng gần gũi với dân chúng và tinh thần nhập thế. Đặc điểm loại thơ này là nội dung mang tính phổ biến, dễ hiểu, phù hợp với quảng đại quần chúng. Ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống.
Thơ Nôm của Tổ Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, được biết đến không nhiều như thơ chữ Hán của Tổ. Tuy nhiên, thơ Nôm của Tổ, nếu còn lại, thường mang đậm tính giáo huấn, triết lý Thiền, và cảm hứng từ thiên nhiên. Bài thơ Nôm nổi tiếng được nhắc đến trong các tài liệu lịch sử và văn học là bài Vịnh Vân Yên tự phú. (trích đoạn liên quan đến Yên Tử)
Ta nay:
Ngồi đỉnh Vân Tiêu;
Cuỡi chơi Cánh Diều.
Coi Đông Sơn tựa hòn kim lục;
Xem Đông Hải tựa miệng con ngao.
Nức đài lan nghĩ hương đan quế;
Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.
Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;
Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.
Thầy tu trước đã nên Phật quả;
Tiểu tu sau còn vị tỳ-kheo.
…………………………….
Thấy đây:
Hồ Thiên lẻ tẻ;
Xem lâu có nhẹ.
Tuy rằng học đạo hư vô;
Ngậm ngụt hỏi thiền ngôn nghĩ.
Mê một tấm lòng xét chẳng cùng;
Chác tấc bóng nghìn vàng còn rẻ.
Hẹn đến lâm tuyền làm bạn, bụng nói thôi đi;
Bảo rằng thành thị kết giao miệng liền ừ hễ.
Đua khoái lạc, chân bước lăm chăm;
Nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ.
Chẳng những vượn hạc thốt thề;
Lại phải cỏ hoa cười thỉ.
…………………………..
Thơ Nôm của Tổ thường dùng những từ ngữ quen thuộc, dễ hiểu để miêu tả cảnh sắc núi rừng Yên Tử, hoa, trăng, suối, mây... , tạo nên vẻ đẹp thanh thoát và sâu lắng nhằm truyền tải tư tưởng Thiền đề cao sự buông bỏ, và hòa mình với thiên nhiên và giáo lý đạo Phật đến người dân.
4. Thơ văn tả cảnh thiên nhiên
Trong thơ của Huyền Quang, hình ảnh thiên nhiên xuất hiện thường xuyên, đóng vai trò như một phương tiện để diễn đạt tư tưởng Thiền và tình yêu đối với cảnh vật thanh tịnh. Tổ mô tả cảnh sắc núi rừng Yên Tử, hoa cỏ, mây trời. Thiên nhiên không chỉ là đối tượng miêu tả mà còn là nơi thể hiện tâm hồn trong sáng và thanh cao của thiền sư.
夜氣分涼入畫屏,
蕭蕭庭樹報秋聲。
竹堂忘適香初燼,
一一叢枝網月明。
Tảo thu
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
Đầu thu
Không khí ban đêm se lạnh thấm vào màn che,
Cây cối trong sân xào xạc báo hiệu âm thanh của mùa thu.
Trong gian nhà trúc, lặng quên đi sự ưu tư, hương trầm vừa tàn,
Những cành lá chen chúc hiện rõ dưới ánh trăng sáng.
Đầu thu
Ban đêm mát lạnh gió màn lay,
Cây lá sân kia thu đã hay.
Hương trầm tàn lặng lòng vơi nỗi,
Trăng sáng soi cành bóng đan tay.
5. Thơ mang tính chất giáo huấn
Huyền Quang sáng tác những bài thơ với nội dung giáo huấn, nhắn nhủ con người hướng thiện, sống đạo đức, và thực hành theo lời Phật dạy.
Khi làm loại thơ này, Tổ đã thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị nhưng sâu sắc, dễ hiểu, phù hợp để truyền bá tư tưởng Phật giáo.
富貴浮雲遲未到,
光陰流水急相催。
何如小隱林泉下,
一榻松風茶一杯
Tặng sĩ đồ tử đệ
Phú quý phù vân trì vị đáo,
Quang âm lưu thủy cấp tương thôi.
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,
Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi.
Tặng người trẻ trên đường công danh
Phú quý như mây nổi, mãi chưa đến,
Thời gian như dòng nước chảy xiết vội thúc giục.
Sao bằng ẩn mình nơi rừng suối,
Một chiếc giường nhỏ dưới bóng thông, một chén trà.
Tặng người trẻ trên đường công danh
Phú quý mây trôi đến chậm thôi,
Thời gian nước chảy vội trôi hoài.
Sao bằng rừng suối nơi ẩn dật,
Giường thông trà ấm thỏa lòng ai.
Nhìn chung, thơ của tổ Huyền Quang không chỉ đa dạng về thể loại mà còn mang giá trị tư tưởng cao, kết hợp giữa triết lý Thiền học và văn hóa Việt Nam. Các thể loại như thơ Đường luật, thơ tả cảnh thiên nhiên, và thơ Thiền, đều được Tổ sử dụng để truyền tải thông điệp sâu sắc, vừa thanh cao, vừa gắn bó với đời thường.
III. TƯ TƯỞNG THIỀN TÔNG QUA THI CA HUYỀN QUANG
Đệ tam tổ thể hiện rõ ràng tư tưởng thiền học độc đáo, vừa mang tính truyền thống Phật giáo vừa thấm đượm tinh thần Việt Nam qua những vần thơ tuyệt tác. Những bài thơ của ngài không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là lời chỉ dẫn sâu sắc về con đường tu tập, giải thoát, và hòa hợp với vạn vật. Tư tưởng thiền học của Tổ Huyền Quang qua thi ca không chỉ là di sản văn hóa và tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về ý nghĩa của sự giác ngộ, lòng từ bi và tinh thần sống hài hòa với vũ trụ.
1. Phản quan tự kỷ
Đây là tư tưởng cốt lõi của Thiền tông. Câu này nói đủ là “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” của Tuệ Trung đáp câu hỏi “Như hà thị Tông chỉ bản phận?” của Trần Nhân Tông, nhằm nhấn mạnh rằng sự giác ngộ không đến từ bên ngoài, không dựa vào kinh sách hay sự chỉ dạy từ người khác, mà phải bắt đầu từ việc quay về nhận biết tự tính . Tinh thần này đồng nhất với tư tưởng "Kiến tánh thành Phật" (見性成佛) của Thiền tông, nghĩa là nhìn thấy bản chất thật của mình thì sẽ đạt giác ngộ.
Thiền phái Trúc Lâm thuờng lấy câu” Phản quan tự kỷ” làm phương châm tu hành. Chúng ta hãy xem Tam Tổ chỉ chúng ta như thế nào? Trong bài thơ “Xuân nhật tức sự” sau đây:
春日即事
二八佳人刺繡遲,
紫荊花下轉黃鸝。
可憐無限傷春意,
盡在停針不語時。
Xuân nhật tức sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng li.
Khả lân vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thi.
Người con gái đẹp ở tuổi mười sáu đang thêu thùa chậm rãi,
Dưới cây hoa tử kinh, chim hoàng oanh bay lượn.
Thương lắm là chỗ thương ý xuân vô hạn,
Tất cả đều hiện rõ trong giây phút ngừng tay, im lặng không nói.
Nhẩn nha thêu gấm, gái tròn trăng
Oanh vàng thỏ thẻ khóm hoa gần
Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy
Lúc chợt dừng kim, không nói năng.
Hai câu đầu, Thiền sư mượn cảnh giai nhân đang thêu ví dụ cho người tu thiền dù tại gia hay xuất gia hướng về chân thiện mỹ (chân lý tối hậu), nên dùng hình ảnh cô gái lúc 16 tuổi tâm hồn trong trắng mong đợi xuân đến, để ví dụ.
“Khả lân vô hạn thương xuân ý, tận tại đình châm bất ngữ thì”, lòng thương chan chứa ý xuân của giai nhân hiển lộ (muốn thể nhập chân lý) khi “dừng kim không nói”, ám dụ sự thể chứng diệu tánh tròn sáng của thiền giả. Câu dừng kim không nói nghĩa là dừng tất cả tạo tác trên danh tướng cơ tâm cho đến siêu việt bất kỳ ngôn ngữ văn tự và lập tức nhận lấy tự tính viên minh vi diệu.
2. Bất nhị
Trong bài thơ chùa Diên Hựu, Tổ có viết những câu sau đây có thể nói là nhãn quan và tư duy của Tổ về yếu tố để đạt đại đạo.
延祐寺
上方秋夜一鐘闌,
月色如波楓樹丹。
鴟吻倒眠方鏡冷,
塔光雙峙玉尖寒。
萬緣不擾城遮俗,
半點無憂眼放寬。
參透是非平等相,
魔宮佛國好生觀。
Diên Hựu tự
Thượng phương thu dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.
Si vẫn đảo miên phương kính lãnh,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tương,
Ma cung Phật quốc hảo sanh quan.
Trên đỉnh cao, đêm thu một tiếng chuông dứt,
Ánh trăng như sóng nước, lá phong đỏ rực.
Con Si Vẫn ngửa ngủ, mặt gương lạnh buốt,
Ánh sáng từ hai ngọn tháp chiếu, ngọc sáng lạnh ngắt.
Vạn duyên không quấy nhiễu, là nhờ bức thành (giới) ngăn che thế tục,
Một chút không lo âu, đôi mắt mở rộng.
Thấu hiểu thị phi, tất cả đều bình đẳng,
Chiêm nghiệm và nhận thức sâu sắc về thế giới, không phân biệt ranh giới giữa "ma cung" (cung điện của ma quỷ) và "Phật quốc" (cõi Phật)
Thơ đêm thu
Trên đỉnh thu đêm tiếng chuông ngân,
Trăng soi sóng ánh, lá phong hồng.
Si Vẫn nghiêng ngủ, gương sương lạnh,
Tháp ngọc đôi vươn, sáng lạnh trong.
Thành ngăn tục luỵ trần không vướng
Cửa ngỏ vô ưu mắt rộng tầm
Thấy được thị phi cùng một tướng
Ma cung Phật quốc cũng ngồi chung.
Thích Nhất Hạnh
Bài thơ "Diên Hựu tự" (延祐寺) của Thiền sư Huyền Quang miêu tả cảnh chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) trong đêm thu, đồng thời thể hiện tư tưởng thiền học sâu sắc.
Mở đầu, tác giả vẽ nên khung cảnh thanh tịnh của chùa với tiếng chuông đêm thu và ánh trăng chiếu trên lá phong đỏ:
"Thượng phương thu dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan."
Tiếp theo, hình ảnh "si vẫn" (mỏ chim cú trang trí trên mái chùa) phản chiếu trên mặt nước lạnh, cùng hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc, tạo nên cảm giác tĩnh lặng và thanh khiết:
"Si vẫn đảo miên phương kính lãnh,
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn."
Hai câu tiếp theo nhấn mạnh sự tách biệt khỏi trần tục, khi muôn duyên không còn vướng bận, tâm hồn trở nên thanh thản và tầm nhìn rộng mở:
"Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan."
Cuối cùng, bài thơ đề cập đến sự thấu hiểu bản chất bình đẳng của mọi sự vật, vượt qua phân biệt giữa đúng và sai, thiện và ác, để nhận ra rằng cung ma và cõi Phật đều do tâm tạo:
"Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan."
Tổng thể, bài thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp của chùa Diên Hựu mà còn truyền tải tư tưởng thiền học về sự tĩnh lặng nội tâm và nhận thức về bản chất bình đẳng của vạn vật. Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục, tức là khi chúng ta giữ giới thì Giới và Định là những bức thành để ngăn giữ không cho phiền não xâm nhập. Bởi không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng, cũng như khi tham thiền đạt đến chỗ bất nhị của những cặp đối đãi như thị/phi, mê/ngộ, thì cái nhìn “nhị kiến” không còn, lúc ấy không còn sự đối lập “Ma-Phật” nữa, và cảnh nào cũng là cảnh giới Phật, cung Ma cũng trở thành Phật quốc.
3. Đốn ngộ
Đốn ngộ (頓悟) trong Thiền tông là một khái niệm trung tâm, chỉ sự giác ngộ ngay lập tức, không qua các bước tuần tự hoặc quá trình dài luyện tập. Đây là sự nhận thức sâu sắc và bất ngờ về bản chất thật của thực tại, sự thật tối hậu hoặc "tự tính" (自性) của tâm. Đây là tinh thần cốt lõi của Thiền: đi thẳng vào sự thật, bỏ qua mọi lý thuyết, thực hành và suy tư phức tạp, để nhận ra rằng giác ngộ không nằm ở đâu xa mà ngay trong chính bản thân mỗi người.
Đốn ngộ không chỉ là một triết lý trừu tượng, mà còn hướng dẫn cách nhìn cuộc sống: Tâm giác ngộ nhận ra bản chất của mọi hiện tượng mà không chấp trước. Hiểu rõ rằng mọi thứ đều vô thường huyễn mộng, không có bản chất cố định, nên không bị ràng buộc bởi tham, sân, si. Đốn ngộ khuyến khích sự hòa hợp, buông bỏ những xung đột trong tâm trí và giữa con người với muôn vật.
Cúc hoa kì ngũ
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc tọa tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Hoa cúc bài 5
Hoa ở giữa sân, người trên lầu,
Đốt hương ngồi một mình, quên hết mọi phiền não.
Chủ nhân cùng vật (hoa cúc), không phân năng (chủ thể) sở (đối tượng)
Ngay khi ấy hoa tâm nở ra (tâm hoa khai phóng-đốn ngộ)
Người ở trên lầu hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đoá hoa vàng chợt nở tung.
Nhất Hạnh dịch.
Hai câu đầu, tác giả vẽ nên bức tranh tĩnh lặng, thanh bình với hình ảnh hoa cúc nở giữa sân, còn người thì ngồi trên lầu thắp hương, tâm hồn như quên hết mọi ưu phiền. Điều này thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, cũng như trạng thái tâm hồn thanh tịnh, không vướng bận.
Hai câu sau, Tổ nhấn mạnh sự hòa hợp giữa chủ nhân và vạn vật, không có sự phân biệt. Trong bối cảnh đó, hoa cúc nổi bật giữa muôn loài, thể hiện vẻ đẹp thanh cao và sự vượt trội. Trong vườn của Tổ đây đó trồng toàn hoa cúc. Ngồi thiền xong, Tổ ngồi ngắm cúc cho đến khi thấy người ngắm hòa và hoa, hai thứ hồn nhiên là một. Trong giây phút chủ thể và đối tượng (năng và sở) bất nhị thì khi ấy trong vườn hoa chợt nở ra đóa hoa kỳ diệu. Đó là cái mà nhà thiền gọi là “tâm hoa khai phóng” hay “hoa khai kiến Phật, ngộ vô sanh” của tông Tịnh Độ thường đề cập khi niệm Phật đến chỗ nhất tâm.
4. Tĩnh trong động
Trong núi đôi khi Tổ ở nơi am vắng với một tiểu đồng. Là một thiền sư, nhưng Tổ cũng là một Tăng thống lãnh đạo một giáo hội mà lại giản dị và an nhiên như lúc củi đã tàn, cũng chẳng thắp hương, Tổ một tay cầm ống thổi lửa và một tay cầm mo nang đút vào lò, miệng thì giải đáp nghĩa những chương kinh ngắn cho chú tiểu, mặc kệ cho ai cười Tổ bận rộn. Ở đây, chúng ta thấy rõ là Tổ tu theo Tổ sư thiền, theo tông chỉ của Thiền phái Trúc Lâm, có nghĩa không chỉ một bề ngồi trong tư thế kết già mới là thiền mà thể hiện thiền trong mọi nơi như làm những công việc lặt vặt trong sinh hoạt đời thường. Dù bị mọi người chê là phải làm nhiều việc cùng một lúc, không được rảnh rỗi, nhưng Tổ vẫn giữ tâm thái an nhiên.
地爐即事
煨餘榾柮絕焚香,
口答山童問短章。
手把吹商和采蘀,
徒教人笑老僧忙。
Địa lô tức sự
Ôi dư cốt đốt tuyệt phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả xuy thương hòa thải thác,
Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang.
Củi đã cháy hết, không còn thắp hương,
Miệng trả lời chú tiểu hỏi về đoạn kinh ngắn.
Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang,
Luố
0 Comments
Add new comment