Tiểu sử Hòa thượng Cố vấn

Posted by tranminhhuydn on Wed, 22/01/2025 48:10

TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG

THƯỢNG PHƯỚC HẠ HẢO

(1930 - 2014)

  1. THẾ TỘC

Hòa thượng húy Huỳnh Phước Hảo, Pháp hiệu Thích Phước Hảo sanh năm Canh Ngọ (1930) tại Vĩnh Bình (hiện nay thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, xuất thân trong gia đình Nho giáo. Thân phụ là Huỳnh Văn Thoàn, Pháp danh Nhựt Định. Thân mẫu là Trần Thị Sáu, Pháp danh Phước Vinh.


Hòa thượng mất mẹ lúc tuổi còn thơ. Ngài là con Trưởng trong gia đình, thay mẹ gánh vác và chăm lo đàn em thơ dại, nay là các vị: thầy Thích Thanh Tịnh, thầy Thích Thanh Thủy, thầy Thích Đạo Nhẫn và Ni sư Hải Huyền.

Túc duyên Phật pháp ngài gieo trồng sâu dày. Sau khi thân phụ mất, ngài là trụ cột gia đình, khuyến tấn người thân hướng về Phật pháp. Từ thuở thiếu thời, ngài sống giản dị, ăn uống đạm bạc.

II.    ĐẠO PHÁP

Cơ duyên Phật pháp chín muồi, ngài tìm đến tổ Khánh Anh tại Tổ đình Phước Hậu thuộc huyện Trà Ôn xin xuất gia vào năm 1949. Ngài từng theo chân tổ Thiện Hoa học nghề Y để giúp đỡ, chăm sóc và trị bệnh cho bà con láng giềng tại Chùa Phật Quang, Bang Chang, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1957, Hòa thượng thọ giới Tỳ-kheo, làm học Tăng của Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang - Sài Gòn. Sau đó ngài được đưa về Phật học đường Lưỡng Xuyên (chùa Phước Hòa, Trà Vinh), vừa làm học Tăng vừa làm Trụ trì của chùa.

Năm 1964, tổ Thiện Hòa cử ngài làm Chúng trưởng tại Phật học đường Nam Việt. Kế đó, ngài làm Liên chúng trưởng, rồi vào năm 1970 được bổ nhiệm về làm tổng Giám thị tại Phật học viện Huệ Nghiêm, huyện Bình Chánh, Gia Định.

Năm 1971, ngài theo Hòa thượng Ân sư thượng Thanh hạ Từ tu học tại Tu viện Chân Không, Vũng Tàu. Ngài vừa là sư đệ, vừa là đệ tử của Hòa thượng Ân Sư.

Năm 1974, ngài làm Quản viện của Tu viện Chân Không, sau đó được Hòa thượng Viện chủ điều về làm Quản viện của Thiền viện Linh Quang, Cát Lở, Thành phố Vũng Tàu.

Sau năm 1975,  Ngài làm Trụ trì Tu viện Chân Không đến năm 1986. Từ năm 1987, Hòa thượng nhập thất 03 năm tại Thiền viện Thường Chiếu.

Đến năm 1994, Tu viện Chân Không được tái thiết và đổi thành Thiền viện Chơn Không.

Hòa thượng kế thừa Hòa thượng Ân sư Trúc Lâm làm trụ trì tại đây đến năm 2000. Từ 2001 cho đến ngày 21 tháng 01 năm 2014, Ngài là cố vấn Thiền viện Chơn Không và Ủy viên Ban quản trị Thiền phái Trúc Lâm.

Chúng ta có lòng quý kính Hòa thượng là một bậc Thầy, bậc huynh trưởng cả đời tu hành. Đồng thời Hòa thượng có nhân duyên cùng với Hòa thượng Trúc Lâm hoằng hóa, chúng ta là những người đi sau, đến với Tổ đình, Thiền viện sau thì chúng ta đã có thọ ơn giáo hóa của Thầy rồi.

         Dù là huynh trưởng nhưng Hòa thượng là bậc Thầy của chúng ta. Ngày xưa, khi tôi mới được thi tuyển vào Phật học đường Nam Việt ở Vĩnh Bình thì Thầy đã là Chúng trưởng. Sau pháp nạn 1963, Trường Phật học Nam Việt không còn phát triển được nữa, bấy giờ Ban Giám hiệu ở Huệ Nghiêm là Hòa thượng Trúc Lâm, Hòa thượng Bửu Huệ, Hòa thượng Thiền Tâm phụng mạng các Hòa thượng trong Ấn Quang là Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Thiện Hòa cùng Giáo hội xây dựng Phật học viện Huệ Nghiêm cho Tăng chúng có chỗ tu học. Và vị kế thừa là Hòa thượng Phước Hảo tức quyền Giám đốc của Phật học viện Huệ Nghiêm. Thầy trung thành với chư Tổ, lo lắng các mặt phật sự thay cho các Hòa thượng. Thầy lại còn lo ổn định các công việc ở Tổ đình Phước Hậu. Sau khi Hòa thượng Tổ sư quy tịch, Thầy theo Hòa thượng Trúc Lâm, vừa làm người học trò vừa thừa hành các phật sự khác. Cho nên, các chú còn nhỏ lại mới vào Thiền viện thì đều có thọ ân giáo hóa của Thầy.

Người ở lại có thể không nhớ hay không biết sinh tiền Hòa thượng đã từng là một cao tăng trong ban Giám đốc, ban Giảng huấn các Phật học đường Huệ Nghiêm, Phước Hòa, là dịch giả, soạn giả các bộ kinh, bộ ngữ lục trong nhà thiền. Nhưng chắc chắn sẽ còn đọng lại trong ký ức của chư huynh đệ về một hành giả vô cầu, vô sở hữu, vô ngại giữa cõi sắc sắc không không. Nơi đây, dù bao nhiêu bài viết, bao nhiêu hình ảnh… cũng không sao tả được vẻ đẹp của một hành giả trên nẻo đường độc hành, lặng lẽ.

Dù vậy, nét son của trang sử thiền phái Trúc Lâm vẫn in dấu trong lòng thiền tăng thế kỷ XX-XXI một cuộc đời bậc cao túc, môn hạ của Hòa thượng Ân sư, đã trung thành xuyên suốt theo chân Ân sư trong cuộc hành trình về nguồn, cùng Thầy tổ một thời gầy dựng và giữ vững giềng mối cội nguồn Chân Không. Là một thiền tăng chốn Không môn, Hòa thượng xứng đáng là hàng hậu bối truyền trì mạng mạch chánh pháp Như Lai, kế thừa đạo mạch Tổ tông.

DI NGÔN

Nên nhớ thật kỹ:

  • Phải tiết kiệm thời gian để tu tập (trễ rồi)
  • Nếu chưa làm chủ hoàn toàn thì khi ra đi sẽ ra sao!?

Làm chủ thì tự do tự tại, không làm chủ thì bị nghiệp lôi đi.

 

 

TẬP QUÁN VẪN CÒN

 

         Bệnh dao động thật là một bệnh trầm kha! Hôm nay mình mất nhiều thì giờ quá. Cũng bởi việc quà biếu và nhận quà biếu. Sự thật việc quà lại là việc xã giao, làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, có gì quan trọng.

         Mình nhận của người (nhất là thân nhân) họ tốt với mình, mình vui vẻ và giữ tâm thanh tịnh thì họ được phước là đủ. Tính toán nhiều, tâm dao động mất thì giờ là không hợp lý. Vậy phải cố gắng khi gặp việc phải “trầm tĩnh và thong thả” để giải quyết từ từ. Mọi việc đâu rồi cũng vào đó, vội vã để làm gì?

“TRẦM TĨNH VÀ THẢN NHIÊN LÀ HƠN CẢ”.

 

THÊM MỘT CHUYỂN BIẾN

 

         Cuộc sống luôn luôn là chuyển biến. Từ chuyển biến này đến chuyển biến khác, luôn luôn như dòng nước chảy, cứ đổi thay mãi không dừng.

         Mình lên thất hơn 7 tháng qua, mà bao nhiêu điều xảy ra cho thiền viện, hay cũng có dở cũng có, tốt cũng có mà xấu cũng có. Nhất là đổi thay về nhân sự … hôm nay lại mất mát thêm một người nữa. Khiến mình cũng xúc động, hơi buồn. Tuy nhiên đã hiểu cuộc sống là như thế, thì nên giữ tâm “yên tĩnh” đừng nên chạy theo sự đổi thay mà sinh động niệm. Hãy cố gắng giữ vững lập trường tu hành: “Thản nhiên trước mọi việc dù là bị tổn thương mất mát …”

view(233)

0 Comments

Add new comment