Invalid content

THIỀN HỌC PHÁP LOA

Posted by Thông Thiền on Mon, 13/11/2023 21:17

THIỀN HỌC PHÁP LOA với TÔNG CHỈ TRÚC LÂM

Bài tham luận cho Hội thảo ngày 15-11-2020

Hiện tại nếu chúng ta là hàng con cháu trong Tông môn, hãy cùng nhau khảo sát tư tưởng thiền học của Nhị Tổ Pháp Loa trong Thiền Đạo Yếu Học (thấy chép ở sách Tam Tổ Thực Lục trong Việt Nam Phật Điển Tùng San do Viện Viễn Đông Bác Cổ hỗ trợ ấn hành), xoay quanh trục tư tưởng được xem là tông chỉ Trúc Lâm, mà người đại biểu là Trần Nhân Tông, là tổ khai sáng. Tổ chỉ là người đại biểu bởi trước đó đã có các bậc tiền bối đặt nền tảng cho thiền phái Trúc Lâm như: Viên Chứng quốc sư, Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Thánh Tông …rồi cùng đối chiếu lại với đường lối tu thiền của Hòa thượng Thanh Từ, tông chủ thiền phái Trúc Lâm đương đại.


Trong di sản văn hóa phi vật thể của Nhị tổ Pháp Loa để lại, bên cạnh các trước tác đã thất lạc còn khá nhiều lời dạy của Ngài cho hành giả tu theo Thiền tông, như những tác phẩm:

- Đoạn sách lục;
- Thiền Đạo Yếu Học
- Kim cương đạo trường đà-la-ni kinh;
- Tán Pháp hoa kinh khoa sớ;
- Bát-nhã tâm kinh khoa; và một vài bài kệ trước lúc tịch.

Thiền học của Pháp Loa

Thiền Đạo Yếu Học là sách mà ta cần khảo sát, gồm có 4 tiểu phẩm: Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn (Lời khuyên xuất gia tiến đạo), Thượng thừa tam học khuyến chúng (Khuyên chúng học về Tam học của Thượng thừa), Đại thừa yếu thuyết (Nói chỗ cốt yếu của Đại thừa), Yếu minh học thuật (Cần biết rõ cách học). Nội dung của chúng hàm chứa tư tưởng thiền học của Nhị tổ Pháp Loa. Trọng tâm là Thượng thừa tam học khuyến chúng. Sau đây là toàn văn của tiểu phẩm này:

Người học Phật, trước tiên cần thấy tánh. Thấy tánh, không phải gọi là cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy chỗ không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy “cái thấy không thể thấy” thì chân tánh sẽ hiện ra. Tánh thấy là vô sanh, nên “nảy sanh cái thấy” là không có. Cũng không có sự thực hữu của tánh, mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói chân thực thấy tánh.

Giới học

Thế nào là tịnh giới? Ấy là trong khoảng mười hai thời bên ngoài dứt hết mọi nhân duyên, bên trong tâm không xao động. Tâm không xao động thì cảnh dù hiện đến cũng như không. Mắt không bị thức lôi cuốn (duyên) mà hướng ra ngoài; thức không bị cảnh níu kéo (duyên) mà hướng vào trong. Ra, vào không dính dáng gì cả, cho nên gọi là ngăn dừng. Tuy gọi ngăn dừng mà không phải là dừng hẳn cái cớ nên dừng. Từ đó mà biết rằng, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, cũng đều như vậy. Đấy gọi là Đại thừa giới, là Vô thượng giới, cũng gọi là Vô đẳng
đẳng giới. Phép tịnh giới này, từ người tiểu tăng cho đến bậc đại tăng, ai cũng có thể duy trì và an trụ trong đó được.

Định học

Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có? Pháp không phải là có thật, vì không có “Hữu tồn tại”. “Hữu” không phải là “cái nào đó tồn tại”, vậy thì “cái có tồn tại” lấy gì mà có được? “Cái có tồn tại” đã là không, thì không có pháp tồn tại. Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì pháp chẳng phải là cái pháp tự nó. Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền. Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền thượng thừa.

Ngoài ra tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật liên tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải tự do tự tại như viên ngọc lăn trên mâm, phải trong sáng như gương trên đài. Đến trình độ này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng được, nói hay nín đều cũng được, có chỗ nào lại không được?

Đã được thế rồi, về sau mới hiểu thấu những câu ngộ: tam quan, tam huyền, tam yếu, ngũ vị; mới suy xét kỹ về tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng; vận dụng cơ pháp của Thiền Tổ không chướng ngại, rèn tới rèn lui, thấu triệt chân nguyên.

Tuệ học

Chừng đó, mới hay mượn pháp tòa của Phật Đăng Vương([1]), đưa sừng thỏ, cầm lông rùa, tung bay rực rỡ một phen, làm nóng bừng mặt và tối mắt bốn chúng. Phát sanh vô thượng diệu tuệ, chiếu soi không cùng. Đối với Tứ vô lượng tâm, Tứ niệm xứ, Tứ vô úy, Bát chánh đạo, Thập lực của Phật, mười tám pháp bất cộng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn đà-la-ni, trần trần sát sát, tất cả môn tam-muội đều từ nơi mình lưu xuất, mỗi mỗi đều đầy đủ.

Tuệ đã đầy đủ, ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha, tứ sanh và cửu loại, tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là si thiền.

Các chú! Các chú đã vào trong chùa làm ông đạo, làm học trò, chỉ cầu danh dự mà chẳng chịu tham đến chỗ nào là chỗ hạ thủ của Phật, Tổ? Chỗ nào là chỗ dụng tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa? Luống để cho ngày lại tháng qua, lăng xăng tìm cầu bên ngoài. Một phen cái chết đến rồi phải làm sao? Đâu là nơi an thân lập mạng? Vả lại, ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, chính mình không có một mảy may. Một hôm nào đó, vua Diêm-la đến ắt không thể tha cho ngươi. Ngươi sao chẳng chịu xét lại, chớ lấy các việc trong mộng ra bàn,  rồi bác không nhân quả, thả mình trong chỗ tối tăm mà tự rước lấy tai họa. Như thế chẳng những làm đồi bại tông môn, mà cũng khiến suy tàn chánh pháp.

Ôi! Tôi còn biết nói gì hơn!

LẠM BÀN

Thượng thừa Tam học khuyến chúng Phổ thuyết nghĩa là Khuyên đại chúng học Tam học (Giới-Định-Tuệ) theo Thượng thừa tức theo Thiền tông, chứ không phải Giới-Định-Tuệ của Đại Thừa. Đây có thể nói là một quan điểm tu hành độc đáo của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, bởi vì trước đây ngoài Tổ Pháp Loa chưa từng thấy ai luận giải như thế.

Đầu tiên, thế nào là Thiền tông? Theo Nhị tổ Pháp Loa trong tác phẩm Thượng thừa tam học khuyến chúng phổ thuyết thì Thiền có chia làm năm: 1. Phàm phu thiền, 2. Ngoại đạo thiền, 3. Tiểu thừa thiền, 4. Đại thừa thiền, 5. Thượng thừa thiền. Đây nói thiền, chính là Thượng thừa thiền vậy. Thiền này, từ đức Phật Tỳ-lô-giá-na trải qua số kiếp bất khả thuyết bất khả thuyết đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đức Thích-ca truyền xuống cho hai mươi tám vị Tổ ở Ấn Độ và sáu vị Tổ ở Trung Hoa, rồi Tổ Tổ trao tay cho nhau truyền bá khắp nơi, tính không thể hết được. Các vị đều do giới này, định này, tuệ này mà được chứng ngộ, thật không có pháp nào khác. Như vậy, Ngài khẳng định pháp môn thiền mà Ngài đề cập chính là Thiền tông, bởi Thượng thừa thiền là tên gọi khác của Thiền tông.

Tông chỉ Trúc Lâm

 Tông chỉ nghĩa là gì? Tông chỉ nghĩa là ý chỉ của Thiền tông. Tông chỉ Trúc Lâm là ý chỉ của Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm hay tư tưởng chủ đạo mà thiền phái Trúc Lâm đời Trần (Trung đại) chủ trương. Đó là:

  1. Tư tưởng Phật tại tâm.
  2. Tư tưởng Đốn ngộ.
  3. Tư tưởng Vô tâm
  4. Tư tưởng Thiền giáo song hành
  5. Tư tưởng Hòa quang đồng trần (nhập thế)

Chúng ta sẽ bàn về thiền học Pháp Loa xoay quanh trục tư tưởng này.

 

  1. Tư tưởng Phật tại tâm (=Giới của Pháp Loa).

Trong hệ thống tư tưởng Thiền học đời Trần, chúng ta thường bắt gặp khái niệm về “tâm”.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Ngũ Tổ đã bảo Huệ Năng: “Chẳng biết bản tâm, học pháp vô ích”. Đó chính là cội gốc (bản) của sự tu hành, nhất là tu theo thiền tông, như cách khẳng định của Tuệ Trung Thượng sĩ:

Phật! Phật! Phật! Không thể thấy

Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.

Nếu khi tâm sanh là Phật sanh

Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.

(Phật Phật Phật bất khả kiến,

Tâm tâm tâm bất khả thuyết.

Nhược Tâm sinh thì thị Phật sinh,

Nhược Phật diệt thì thị Tâm diệt.)

Quốc sư Viên Chứng cũng từng khai thị cho vua Trần Thái Tông: ‘‘Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật. ’’

Sơ tổ Trúc Lâm: “Bụt ở cong nhà, chẳng phải tìm xa/Nhân khuây bản nên ta tìm bụt, đến cốc hay chỉn bụt là ta” Chúng ta biết rằng người đặt nền móng cho thiền Trúc Lâm chính là Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông là người phát huy cho dòng thiền này thêm rực rỡ. Chính Trần Thái Tông đã nói về điều này trong Phổ thuyết sắc thân như sau: “Trọn là buông tâm chạy đi, toàn không một bước trở về, chạy rong trên đường sanh tử, mất tuốt “Bản lai diện mục”. và cũng chính Ngài trong Khuyến phát tâm văn: “Chẳng cuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt biện tâm (nhận được Bản tâm). Vốn không có nam nữ, đâu cần chấp tướng.”

Đến Tổ Pháp Loa dạy trong buổi Tham vấn: “Cần phải tìm xét, đâu chẳng nghe nói: “ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông, hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm”,

Ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông. Tấc vuông là chỉ chữ tâm (tấc vuông Tàu ngày xưa, đó là chữ tâm). Như vậy tất cả pháp môn gốc từ tâm, không từ nơi nào khác. Hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm. Diệu dụng nhiều vô số như cát dưới sông, cũng từ nguồn tâm.

Thế là có sự nhất quán trong tư tưởng Thiền học về “Biện tâm” của Thiền phái Trúc Lâm từ Trần Thái Tông … đến Nhị Tổ Pháp Loa.

  1. Tư tưởng Đốn ngộ (=Giới của Pháp Loa).

Đốn ngộ nghĩa là chóng ngộ tức mau nhận ra bản tánh. Người tu hành muốn được mau ngộ tất nhiên phải bước vào cửa Thiền tông, chớ không còn cửa nào khác. Bởi vì cửa này là cửa tiến thẳng vào thẳng không quanh co, không mượn nhiều phương tiện. Tiến thẳng vào thẳng cái gì? Tiến thẳng đến vô sanh, vào thẳng Phật tánh. Những pháp tu khác hầu hết đều chỉ dạy từ từ, từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Duy pháp Đốn ngộ này: “Ngay nơi sanh diệt nhận vô sanh, ngay nơi phàm phu thấy được Phật tánh.” Ta hãy nghe trong đây định nghĩa Thiền định: “Vọng niệm chẳng sanh là Thiền. Ngồi thấy Bản tánh là Định.” Thiền không có nghĩa là ngồi, mà trong bốn oai nghi tâm đều thanh tịnh sáng suốt không có một vọng niệm dấy khởi. Định không có nghĩa chú tâm vào một cảnh, mà thấy được Bản tánh của mình. Bản tánh tức là Phật tánh hay Chân tâm. Bản tánh không sanh không diệt, nên tâm không chạy theo cảnh sanh diệt.

Trần Thái Tông cho rằng: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tánh” (kiến tánh). Đến Tuệ Trung cũng dạy: “Xoay về tự tánh (kiến tánh) là việc cần làm của người tu thiền, không làm các việc khác mà được” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc). Trần Thánh Tông trong Tự thuật cũng ghi:

“Từ phen để chỏm nhập làng thiền

Chẳng tốn công phu hướng ngoại tìm

Nhận được bản lai chân diện mục (kiến tánh)

Đến đâu mà chẳng thấy hồn nhiên.”

Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo phú cũng bảo: “Miễn được lòng rỗi, chẳng còn phép khác” (hội thứ hai) và: “Tượng chúng ấy, cốc một chân không, dụng đòi căn khí” (hội thứ mười). Lòng rỗi và chân không là tên gọi khác của tự tánh.

Đến phiên Pháp Loa, mở đầu sách Thượng thừa Tam học khuyến chúng Phổ thuyết, Ngài đề cập đến vấn đề kiến tánh (thấy tánh), dĩ nhiên là kiến tánh khởi tu, chứ không phải kiến tánh triệt để, vì kiến tánh triệt để thì khỏi thực hành qua giai đoạn này.

Người học Phật, trước tiên cần thấy tánh. Thấy tánh, không phải gọi là cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy chỗ không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy “cái thấy không thể thấy” thì chân tánh sẽ hiện ra. Đây chính là cái thấy vô phân biệt (kiến đại) theo kinh Lăng Nghiêm nói :

Tánh thấy là vô sanh, nên “nảy sanh cái thấy” là không có. Cũng không có sự thực hữu của tánh (chỉ là giả danh), mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói chân thực thấy tánh.

Tự tánh là Giới là Định là Tuệ cho nên khi kiến tánh thì sẽ thấy Giới tức Định, Định tức Tuệ tương đương với Tâm không lỗi lầm là giới, tâm không loạn động là định, tâm không si mê là Tuệ, chính là lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng. Tư tưởng thiền học Pháp Loa đặt trên nền tảng này khi Ngài nói về ba môn học (Tam học=Giới, Định, Tuệ) theo Thượng thừa tức của Thiền tông. Đây là điểm đặc sắc của Ngài và có cách diễn đạt như sau:

Thế nào là tịnh giới? Ấy là trong khoảng mười hai thời (hai mươi bốn giờ), bên ngoài dứt hết mọi nhân duyên, bên trong tâm không xao động. Tâm không xao động thì cảnh dù hiện đến cũng như không.

眼不為識所緣出Mắt không bị thức lôi cuốn - duyên - mà hướng ra ngoài nghĩa là căn không bị thức chi phối mà chạy theo cảnh bên ngoài; (nơi vật vô tâm mà luôn có cái biết=biết vọng không theo)

識不為境所緣入Thức không bị cảnh níu kéo - duyên - mà hướng vào trong nghĩa là thức không dính vào pháp trần. (nơi tâm vô vật mà luôn có cái biết=biết vọng không theo)

出入不交故名制止Ra, vào không dính dáng gì cả: có căn có trần nhưng thức không có mặt- không dùng thức để phân biệt- (sống với kiến đại), cho nên gọi là ngăn dừng.

雖名制止非止止故Tuy gọi ngăn dừng mà không phải là dừng hẳn cái cớ nên dừng (tức không dừng trên căn và trần).

故知耳鼻舌身意亦復如是Từ đó mà biết rằng, đối với (các “thức” khác như) tai, mũi, lưỡi, thân, ý, cũng đều như vậy.

Đấy gọi là Đại thừa giới, là Vô thượng giới, cũng gọi là Vô đẳng đẳng giới. Phép tịnh giới này, từ người tiểu tăng cho đến bậc đại tăng, ai cũng có thể duy trì và an trụ trong đó được.

Qua đoạn văn trên, chúng ta thấy lời dạy của Nhị Tổ thiền phái Trúc Lâm là Tu bằng cái biết không mang hình tướng:

-Chúng sanh sống bằng tưởng () tức cái biết mang hình tướng.

-Thiền tăng sống bằng tâm () tức cái biết không mang hình tướng. Hình tướng là vọng thuộc về thức, không mang hình tướng là không vọng, không có thức can thiệp vào. Cái biết không mang hình tướng tức cái biết không vọng.

() thì chính là phòng hộ sáu căn không để dính sáu trần, đồng nghĩa giữ giới. Chỗ này nội hàm ý chỉ thiền đốn ngộ mà Phật tổ truyền trao, như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt:

-Từ Phật Thích-ca trong kinh Kim Cang應無所住而生其心 (Nên không trụ vào đâu cả thì chân tâm xuất hiện) tức là sống với kiến đại (cái biết thấy, biết nghe) như kinh Lăng Nghiêm đề nghị. Lục Tổ cũng nói: Lấy vô tướng làm thể, hàm nghĩa Thể của tự tánh thì vô tướng, so với giữ Giới của Pháp Loa là Tu bằng cái biết không mang hình tướng thì đâu có gì khác. Cho đến Sơ Tổ Trúc Lâm trong hội thứ 4 của Cư Trần Lạc Đạo Phú:

Tin xem;

Miễn cốc một lòng;

Thì rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc mới chứng tam thân;

Đoạn lục căn nên trừ lục tặc.

Chữ “một lòng” là nhất tâm. Cốt biết một lòng, thì rảnh hết mọi phiền lụy, mọi mê hoặc. Nghĩa là chỉ khi nhận được một tâm thì dứt hết mọi mê lầm. Hai câu này thật chí lý, nhắc cho chúng ta hiểu người tu phải làm sao ngộ được Bản tâm thì tất cả mọi thứ mê hoặc mới hết. Nếu không ngộ Bản tâm thì mê hoặc không bao giờ hết.

Đoạn lục căn nên trừ lục tặc. Lục căn với lục tặc khác nhau như thế nào? Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục tặc cũng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chớ không thêm gì khác. Tại sao gọi lục tặc, lục căn? Nếu mắt, tai… thấy sắc nghe tiếng liền đuổi theo sắc tiếng, thì gọi là lục tặc, còn không đuổi theo là lục căn, hay hơn nữa được hoàn toàn thanh tịnh thì gọi là lục thông.

Chữ đoạn là dứt. Làm sao dứt lục căn? Chúng ta đừng hiểu lầm, chữ đoạn lục căn không có nghĩa làm hỏng các căn, như tự đâm mắt cho mù, móc tai cho điếc v.v… mà sáu căn đừng cho dính với sáu trần. Nghĩa là nơi mắt đối với sắc, tai đối với thanh, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, ý đối với pháp không cho hai bên dính kẹt nhau, có dính nhau thì dừng lại. Đó là đoạn, chớ không phải đoạn là phá hoại sáu căn.

Đến Nhị tổ thiền phái Trúc Lâm là Pháp Loa出入不交涉 (Ra, vào không dính dáng gì cả). Cách thức trì giới này chính là ứng dụng Kiến đại để tu cũng là sử dụng cái biết không vọng để tu.

Hoà thượng Thanh Từ dạy “biết vọng không theo” nghĩa là biết cảnh bên ngoài và cảnh bên trong (pháp trần) đều là hư vọng nên không theo, tức không dính mắc. Tâm vô tướng ở trên chính là tâm không vọng vì “Hễ những gì có tướng đều là hư vọng” trong kinh Kim Cang. Đây chính là “Cái biết không mang hình tướng” tức cái biết không vọng của Tổ Pháp Loa chủ trương.

Thế là có sự nhất quán trong tư tưởng Thiền học về “Đốn ngộ” của Thiền phái Trúc Lâm từ Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Nhị Tổ Pháp Loa… đến Hoà thượng Thanh Từ thời đương đại.

  1. Tư tưởng vô tâm (=Định của Pháp Loa).

Sơ Tổ Trúc Lâm trong hội thứ 6 của Cư Trần Lạc Đạo Phú:

Thật thế!

Hãy xá vô tâm,

Tự nhiên hợp đạo.

Hãy nên vô tâm, tự nhiên hợp đạo. Người tu tuy có nhiều phương pháp, nhiều lối ứng dụng tu, nhưng chỗ tột cùng vẫn là vô tâm. Vô tâm nào? Vô tâm vọng tưởng, vô tâm phân biệt chạy theo sáu trần. Khi tâm đó lặng đi, tự nhiên hợp đạo, chớ không có gì khác. Ở đây nói vô tâm, chỗ khác nói nhất tâm. Đạo tức là thể chân thật của Chân tâm, khi ngộ được Chân tâm gọi đó là ngộ đạo. Vì vậy muốn ngộ được Chân tâm thì phải không có tâm hư vọng. Tâm hư vọng lặng rồi, thì Chân tâm hiện tiền, cho nên nói: Hãy xá vô tâm, tự nhiên hợp đạo.

Chỗ này tương đương với 4 câu kệ trong Kệ Hô Thiền của Tổ Đạt-ma trong Ngộ Tánh Luận:

Gẫm xem các pháp đều như huyễn,

Bổn tánh tự không đâu dụng trừ,

Nếu biết tâm tánh không tướng mạo,

Lặng yên chẳng động tự như như.

 

Lặng yên chẳng động tức là Định vậy. Đây cũng là Thể chân chỉ của Trí Khải đại sư dạy, cũng là chánh quán của Đại thừa.

Đến Nhị Tổ Pháp Loa:

Nhân giữ giới vững chắc không động, kế đó mới tập thiền. Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có? Pháp không phải là có thật, vì không có “Hữu tồn tại”. “Hữu” không phải là “cái nào đó tồn tại”, vậy thì “cái có tồn tại” lấy gì mà có được? “Cái có tồn tại” đã là không, thì không có pháp tồn tại. Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có chỗ dựa nương thì pháp chẳng phải là cái pháp tự nó. Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền. Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền thượng thừa.

Định mà Nhị tổ nói ở đây chính là chỗ chư tổ Thiền tông gọi là bảo nhậm sau khi ngộ, còn Tuệ là dụng của tự tánh sau quá trình bảo nhậm lâu dài (buông xả thân tâm).

Câu Nhân giữ giới vững chắc không động  của Pháp Loa giống với câu  Nếu thấy tất cả cảnh mà tâm không loạn, ấy là định vậy của Lục tổ Huệ Năng.

Cái yếu chỉ của thiền định là thân tâm đều xả. Trước tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu mà đến? tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp từ đâu mà có?

Chỗ này xin dẫn nguyên tác Hán văn để tiện khảo sát :

法非實有,無有有故. Pháp không phải là có thật, vì không có “Hữu tồn tại”.

Pháp là tất cả những gì có đặc tính của nó, không khiến ta lầm với cái khác, có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái niệm về nó. Pháp tức là tất cả sự vật từ tinh thần lẫn vật chất, nào Thánh phàm chơn vọng, hữu tình vô tình, hữu hình vô hình, hữu vi vô vi v.v..

Hữu: tức 25 hữu, chính là tam giới, là cái có tình thức, có vọng tưởng, có sinh tử … trong đó có  cái TA (bao gồm thân tâm), phạm vi rộng, bao trùm cả pháp. Cho nên khi “Hữu tồn tại” đã không, thì “Pháp tồn tại” cũng không.

有非有有,有有何有? “Hữu” không phải là “cái nào đó tồn tại”, vậy thì “cái có tồn tại” (những cái thuộc về Hữu-tam giới) lấy gì mà có được?

有有已無,無有有法. “Cái có tồn tại” (những cái thuộc về Hữu-tam giới) đã là không, thì không có pháp tồn tại.

法法不法,法法何依? Mỗi pháp chẳng phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu?

無據無依,法非法法. Không có chỗ dựa nương, thì “pháp” chẳng phải là cái pháp tự nó (mà do nhân duyên sinh).

Chỗ này tương tự như câu此則破三界二十五有。外諸法。盡知不實。從心變起。悉是假名Như thế mới phá được ba cõi hai mươi lăm hữu, các pháp trong ngoài đều biết chẳng thật, từ tâm biến hiện, tất cả là giả danh của Tổ Linh Hựu dạy trong Quy Sơn Cảnh Sách. Đây là chánh quán của Đại thừa, thấy tam giới không thật, như giấc mộng, thì những thứ trong tam giới cũng không thật nên tâm không xao động. Thường thấy như vậy là có định rồi!

此法非實,亦非不實Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật.

Sự vật hiện hữu là không thật, nhưng cũng chẳng phải không thật, tại sao? Đứng về giả tướng duyên hợp thì các pháp là không thật, nhưng Thật tánh hay Tánh không của tất cả pháp đâu phải là không!

得實法證,此證入禪Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền.

Tất cả pháp là không, không thật, duyên hợp hư giả, tánh nó là không. Thấy được Tánh không đó rồi, mới đi tới chỗ chứng nhập thiền.

Chúng ta hãy nghe Tuệ Trung nói trong bài “Phàm thánh bất dị”: Thân từ vô tướng vốn là không/Hư huyễn lầm chia thành nhị kiến. Câu Pháp này không thật cũng chẳng phải không thật chính là thấy thân như huyễn, và Chứng được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền chính là “Đâu quan hệ gì tấm thân huyễn hóa, trọn là Pháp thân” của Trần Thái Tông (Hướng Thượng nhất Lộ).

Ngoài ra tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên mật liên tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo, không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải tự do tự tại như viên ngọc lăn trên mâm, phải trong sáng như gương trên đài. Đến trình độ này, đi cũng được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng được, nói hay nín đều cũng đuợc, có chỗ nào lại không được?

Ở đây, Tổ Pháp Loa so sánh chỗ tu này với Pháp tham thiền của chư tổ Trung Quốc để cho ta thấy lối hành trì tuy khác nhưng mục đích giống nhau là tâm định kiên cố (Nghi tình kết thành khối).

Và Hòa thượng Thanh Từ chủ trương sống thuần với cái biết (Biết là chân tâm sau quá trình Biết vọng dài lâu). Hòa thượng dạy: “Trong nhà Phật thường nói Chân tâm là cái thường biết rõ ràng, tỉnh táo sáng suốt chớ không mờ mờ. Như vậy khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mình biết rõ ràng, làm sao dừng ở chặng đầu, đó là điều quan trọng. Ngồi gẫm thật kỹ, tôi thấy bây giờ mình nên đặt thành phương tiện. Vừa nhìn chưa cần thấy cái gì, tự nhủ mắt biết thấy là Chân tâm. Biết là tâm. Thấy được cảnh, ngay niệm đầu đừng có niệm thứ hai thứ ba. Thấy biết là Chân tâm, còn thêm cái gì nữa thì quá Chân tâm rồi.

Ngay nơi sáu căn, mắt thấy - biết - dừng. Tai nghe - biết - dừng. Thân xúc chạm - biết - dừng, không cho đi qua niệm thứ hai thứ ba. Tôi sử dụng như thế thấy có hiệu nghiệm. Khi thấy nói Chân tâm, nó dừng lại. Khi nghe nói Chân tâm, nó dừng lại. Vừa khởi phân biệt nói Chân tâm, nó dừng lại. Nếu để nó đi thì nó đi luôn một mạch, chớ không dừng. Muốn nó dừng phải chận lại, bằng cách đem Ông chủ ra chận. Vừa thấy là Chân tâm, vừa nghe là Chân tâm, sáu căn vừa tiếp xúc với sáu trần, vừa ở niệm đầu là Chân tâm. Mới thấy Chân tâm ở sẵn nơi mình, tại vì chúng ta cứ cho qua hoài nên không thấy. Bây giờ ngay nơi niệm đầu nhận là Chân tâm thì các niệm khác không xen vào. Tôi ứng dụng tu phương pháp này thấy có hiệu nghiệm.

Trong sáu căn, nổi nhất là mắt, kế đến tai, kế nữa là thân. Đó là ba căn nổi, luôn tiếp xúc với bên ngoài. Còn mũi, lưỡi, ý thì chìm, khi có khi không. Vì vậy tôi lấy ba căn nổi làm chỗ tựa. Mắt biết thấy là Chân tâm. Tai biết nghe là Chân tâm. Thân biết xúc chạm là Chân tâm. Biết thấy, biết nghe, biết xúc chạm đều là Chân tâm hiện tiền, không có niệm nào nữa.

Như vậy tự mình thấy mình có cái chân thật hiện tiền, chẳng phải không. Lâu nay chúng ta quên đi, thấy thì thấy cái gì, nghe thì nghe cái gì, xúc chạm thì xúc chạm cái gì… cứ tìm cái thứ hai thứ ba, từ đó dẫn mình đi luôn, quên mất cội gốc. Bây giờ vừa thấy, vừa nghe, vừa biết xúc chạm liền đặt thẳng “Chân tâm”, nó dừng ngay, không bước qua niệm thứ hai thứ ba. Đó là tự mình quay trở về với chính mình, không chạy ra ngoài nữa.

Đây cũng chính là Đại định hiện tiền. Ở đây mới thấy rõ Giới tức Định của người kiến tánh khởi tu.

Người tu tập thiền định không được chấp dụng công, dụng mà không có chỗ dụng, gọi là Thiền thượng thừa.

Người tu thiền không được chấp dụng công. Nếu khi đi cứ một bề ngó xuống, không cho ai đối diện với mình, thấy ai cũng tránh né, đó là chấp dụng công, chưa phải là thật thiền. Thiền mà không thấy mình tu gì cả, chỉ thấy người, thấy cảnh, thấy vật, tâm không dính mắc là được rồi. Dụng công mà không chỗ dụng tức là không cho tâm dính mắc, nhưng thấy vẫn thấy, nghe vẫn nghe mà không dính mắc, đó là Thiền thượng thừa.

Đã được thế rồi, về sau mới thấu hiểu những câu ngộ: tam quan, tam huyền, tam yếu, ngũ vị; mới suy xét kỹ về tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng; vận dụng cơ pháp của Tổ sư Thiền tông không chướng ngại, rèn tới rèn lui liền thấu triệt chân nguyên.

So với đoạn văn trong “Hướng thượng nhất lộ” của Trần Thái Tông đâu khác gì:

Chỗ nói gió khua tùng vang, chỗ nín trăng rọi đầm trong. Khi đi thì mây bay nước chảy, lúc đứng thì non yên núi vững. Lời lời là kế sống đức Thích-ca, câu câu vốn gia phong Tổ Đạt-ma. Buông đó thì cửa cái mở toang, nắm đó thì mọi cửa đóng kín. Tại trong hang quỉ xem như là lầu các Di-lặc, ở dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền. Chốn chốn là Đại quang minh tạng, cơ cơ đều bất nhị pháp môn. Mặc cho tối đi sáng lại, ngại gì mây che trăng khuất. Minh châu trong tay, xanh thì rọi xanh, vàng thì rọi vàng, gương sáng trên đài Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Đâu quan hệ gì tấm thân hư huyễn, trọn là Pháp thân. Chẳng nhọc trên đảnh phóng quang, vốn đủ sáu thông thần dụng.

 

Như thế, chúng ta thấy có sự dung hợp giữa thiền học Pháp Loa với Tông chỉ Trúc Lâm và cách dạy của Hòa thượng Thanh Từ xoay quanh trục tư tưởng Vô tâm.

  1. Tư tưởng Thiền giáo song hành (=Tuệ của Pháp Loa):

Thiền phái Trúc Lâm cũng tự khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới, không bị lệ thuộc vào các dòng thiền trước ảnh hưởng từ Trung Hoa. Từ mô hình tổ chức đến nội dung tu tập hành trì thể hiện bản sắc dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ. Lúc bấy giờ bên Trung Quốc là vào đời Nguyên, các thiền sư phần lớn chủ trương tổ chức tham vấn và tu tập khán thoại đầu, xa rời và không giảng thuyết kinh điển, nhưng ở Việt Nam Sơ Tổ Trúc Lâm lại đề xướng Thiền giáo song hành. Khi cần giảng kinh thuyết pháp thì Nhị tổ sẵn sàng giảng kinh thuyết pháp, cần khai thị thiền cơ thì khai thị thiền cơ. Ba vị Tổ Trúc Lâm khuyến khích người học đọc kinh và bản thân các ngài thì tổ chức thăng tòa phổ thuyết kinh điển, như Tổ Pháp Loa đặc biệt chú ý giảng kinh Hoa Nghiêm, ngoài ra còn giảng kinh Viên Giác, Duy-ma-cật và các bộ Truyền Đăng Lục, Đại Tuệ Ngữ Lục, Tuyết Đậu Ngữ Lục, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục và Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục. Nổi bật nhất của Nhị tổ là in Đại Tạng kinh, tức rất chú trọng về Giáo bên cạnh việc tu thiền.

Cho đến cần dạy người làm lành lánh dữ tu thập thiện để chuyển hóa đời sống xấu ác mà vươn lên thì tùy duyên hướng dẫn, không cố chấp một chiều hay bắt chước rập khuôn. Đây là một điểm sáng tạo đúng với tinh thần thiền, không đóng khung chết một chỗ.

Trong lời tựa Kinh Kim Cang Tam-muội, ngài Trần Thái Tông thuật lại rằng: “Chữ nghĩa còn ngại chưa rành, đêm đến canh khuya (canh hai=11g) mà vẫn còn xem sách. Đã đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật. Kinh này một phen xem qua thì trăm thứ cảm hứng nảy sanh, tìm tòi chỗ thâm áo, ba nhẩm chín suy.”

Đến sơ tổ Trần Nhân Tông: “Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”, và:

“Xem Tam tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh quy”.

Chủ trương của Thiền phái Trúc Lâm là đào tạo ra những mẫu người dân Phật tử kế thừa tông phong, được giáo dục toàn diện mới đáp ứng nhu cầu lịch sử đặt ra. Đó là xây dựng và phát triển Đại Việt trở nên hùng cường thì Phật giáo mới hưng thịnh. Khi đất nước chưa có hệ thống giáo dục đào tạo theo trường lớp, thì nhà chùa trở thành nhà trường, nơi đó dạy đủ các môn mà con người cần học.

Một người Phật tử không chỉ thông thạo kinh điển nhà Phật mà còn phải học những môn khác nữa mới đủ tri thức vận dụng thực tiễn các nhu cầu con người đặt ra.

Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thư 8 Sơ Tổ Trúc Lâm dạy:

Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay; trọng Bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc, nghĩa là xem kinh, đọc lục, làm cho cả hai cái (thấy) và (biết) đều được ngang nhau. Kính Bụt, tu thân, đừng xem thường những điều nhỏ nhặt.

Trần Nhân Nhân Tông dặn dò Đệ Nhị tổ mở rộng việc học bên trong và bên ngoài Phật giáo là nhằm thực hiện xã hội hóa giáo dục, nâng cao trình độ dân trí sau này. Tôn ý của Sơ tổ muốn Pháp Loa đủ kiến thức nội và ngoại điển để đào tạo ra những người thừa kế Thiền phái đủ sức gánh vác các Phật sự khác nhau của đạo cũng như đời. Nếu không, thì Phật giáo chỉ biết đào tạo cho xã hội những con người chuyên tu hành và làm các công việc khác xung quanh khuôn viên nhà chùa mà không tham gia hoạt động gì cả cho xã hội. Ta thấy Nhị tổ dạy trong Yếu minh học thuật (Cần biết rõ cách học): “Người học trước phải khảo sát kinh, pháp sau mới tu hành.”

Như vậy, cần giảng kinh, các ngài giảng kinh thấu đáo, nếu ai muốn trực tiếp vào thiền, các ngài sẵn sàng khai thị trực tiếp, như những đoạn nhân duyên trong Tam Tổ Trúc Lâm đã ghi lại. Đây chính là một điểm đặc sắc, không một bề hướng ngoại mà quên gốc, càng hợp với lý thiền.

  1. Tư tưởng Hòa quang đồng trần (=Tuệ của Pháp Loa):

Tuy tu đạo giải thoát, nhưng không tiêu cực, bi quan, yếm thế mà các Vua nhà Trần (thiền phái Trúc Lâm) vẫn sống giữa trần gian, hòa ánh sáng giác ngộ vào trong cuộc đời trên nhiều phương diện:  

  1. Hòa với toàn dân chống giặc:

Mặc dù “thiên hạ Lý – Trần bán vi Tăng” (Người dân Lý – Trần hết phân nửa là Tăng), theo nhà sử nho Ngô Sĩ Liên thời đó nhận xét, dân tộc Việt Nam không vì tinh thần bác ái, khoan dung của đạo Phật mà trở nên bi quan, yếm thế, tiêu cực và quên lãng bổn phận đối với Tổ quốc và dân tộc khi có ngoại xâm, như trường hợp Ấn Độ, Indonesia trước sự xâm lăng của Hồi giáo, mà trái lại, đã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông, một đội quân hùng mạnh và thiện chiến đã từng bách chiến bách thắng từ Á sang Âu.

Năm 1257, giặc Nguyên Mông xâm lăng đất nước ta, vua Thái Tông (một ông vua ngộ đạo, xem sống chết như trò đùa), đích thân chỉ huy nhiều mặt trận có mặt ở cả mọi nơi nguy hiểm, khiến quân sĩ nức lòng chiến đấu. Kết quả, quân ta đánh tan quân xâm lược, giặc Nguyên Mông tháo thân chạy về Vân Nam (đầu năm 1258). Một ông vua thiền sư hết lòng mộ đạo, đã từng làm kệ khuyên người đừng sát sanh:

Cánh lông mai vảy trọn hàm linh

Sợ chết tham sanh nào khác tình

Từ trước thánh hiền lòng chẳng nỡ

Đâu đành thấy chết vẫn tham sinh.

Tại sao ông lại cầm quân đánh giặc, giết hại biết bao sanh mạng, chắc phải có lý do, hành động này có mang tội sát không?

Sau khi nhường ngôi cho con, ông lui về lập am Thái vi, ở vùng rừng núi Vĩ Lâm (cố đô Hoa Lư) để an dân lập ấp và lo tu hành, cùng khuyên dạy dân chúng tu. Khuyên người dân giữ năm giới, ông nói kệ về giới thứ ba:

Má thoảng hương mai, mặt nhụy đào

Thấy rồi mắt dán, ý nao nao

Thảy đều một đãy da hôi thúi

Thầm cắt ruột người chẳng động dao.

Ông luôn đem bốn tướng sanh, già, bệnh, chết nhắc nhở mọi người tu hành (bốn tướng này trong kinh gọi là bốn núi).

Đem vua Trần Thái Tông so với vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa, chúng ta thấy có những nét đặc thù. Vua Lương Võ Đế (464 – 549) là con người rất sùng Phật, ông từng giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã và sớ giải các kinh … Song, khi Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa năm 520 gặp vua, Tổ nói thiền, vua không lãnh hội, Tổ lên miền Bắc ở tại chùa Thiếu Lâm. Đến cuối đời vua Lương Võ Đế, bị giặc Hầu Cảnh kéo quân vây hãm thành Kiến Khang, quần thần xin xuất quân chống giặc, vua không cho, lại ra lệnh bế cửa thành, tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Kết quả giặc chẳng lui, mà ông bị mất nước và phải chết. Trái lại, vua Trần Thái Tông là người ngộ được Thiền tông, khi giặc Nguyên Mông xâm lăng, vua chỉ huy cầm quân đánh giặc, giặc thua rút lui về, đất nước thái bình, vua mới ngồi yên tu thiền. Hai thái độ của hai ông vua đồng là kính mộ đạo Phật mà xử sự mỗi bên mỗi khác.

Vua Võ Đế bị giặc hãm thành, không cho quân chống cự, lại ra lệnh trong thành tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Đây là đem tôn giáo áp đặt lên chính trị nên phải mắc họa. Vua Thái Tông tách bạch phân minh phần nào thuộc tôn giáo phần nào thuộc chính trị, nên cứu được đất nước khỏi lâm nguy. Tu theo Phật giáo là trau dồi đạo đức, rèn luyện tâm linh, là việc riêng của mỗi người Phật tử, tức là lãnh vực của tôn giáo. Giặc ngoại bang xâm lăng tổ quốc, toàn dân đứng lên chống giặc, người lãnh đạo cổ động lòng yêu nước của dân và đứng ra chỉ huy đánh giặc là lãnh vực chính trị. Phân rành lãnh vực tôn giáo, lãnh vực chính trị là vấn đề rất thiết yếu. Người Phật tử thọ Tam quy, trì Ngũ giới, nếu phạm giới sát sanh là có tội, đó là phần tu hành riêng của Phật tử, thuộc lãnh vực tôn giáo. Đất nước bị xâm lăng, toàn dân đứng lên chống giặc là trách nhiệm của mỗi công dân thuộc lãnh vực chính trị. Nhất là đối với một đạo quân gây tang tóc cho hàng vạn, hàng triệu sinh linh từ Á sang Âu, vó ngựa của chúng tới đâu là gieo kinh hoàng, nhà tan cửa nát tới đó; việc chống lại đoàn quân hiếu sát để bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân, theo nguyện vọng của toàn dân (qua Hội nghị Diên Hồng), là việc làm tự vệ theo nguyện vọng của toàn dân, không tạo bởi tâm hiếu sát, thì có thể đem tội sát luận vào chỗ này không, hay đây là việc làm của Bồ tát thõng tay vào chợ, giống hành động của Bồ tát (tiền thân đức Phật) giết tướng cướp khi qua đò để bảo vệ tài sản và sinh mạng của khách buôn … Do đó, không thể đem tội sát đặt vào chỗ này.

Vua Trần Thái Tông là một ông vua ham tu ngộ đạo mà trọn đời lo bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi nước nhà bị địch họa, nhà vua liều mình cứu nước; lúc đất nước thái bình, tuy tuổi đã già, vẫn dạy dân khai hoang lập ấp, và chỉ dạy họ tu hành, trau dồi đạo đức. Nhà vua không những lo cho dân được cơm no áo ấm mà còn lo cho dân có đức hạnh và biết gạn lọc tâm linh.

Qua lịch sử, chúng ta thấy vua tôi nhà Trần đã ngộ được lý thiền, vận dụng vào cuộc sống, với tinh thần nhập thế, tích cực bảo vệ nền độc lập, xây dựng hạnh phúc cho toàn dân, đây là một đặc điểm chỉ có ở Thiền tông Việt Nam.

  1. Hòa với toàn dân góp phần xây dựng văn hóa dân tộc:

       Các nhà lãnh đạo Thiền phái Trúc Lâm chẳng những là những nhà chính trị, thiền sư, mà còn là những nhà văn hóa, những thi nhân có tài. Các ngài đã ý thức muốn bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách hữu hiệu và lâu dài, phải phát triển nền văn hóa dân tộc, nên các ngài không ngừng học tập nội ngoại điển để thông Lão – Nho, ngộ lý thiền. Để khuyến khích dân chúng học hành, triều đình cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài phục vụ đất nước.

Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ là những Thiền sư ngộ đạo, giỏi thơ văn, đã sáng tác những tác phẩm về đạo lý, dịch giảng kinh

view(341)

0 Comments

Add new comment