MÂY LÀNH TỎA BÓNG YÊU THƯƠNG

Posted by Thông Thiền on Thu, 16/11/2023 44:10

MÂY LÀNH TỎA BÓNG YÊU THƯƠNG

(Tham luận Hội thảo Phật giáo và Từ thiện xã hội do viện TNT tổ chức tại

Tam Chúc Hà Nam)

Người con Phật đem tình thương vào đời như áng mây lành tỏa bóng mát che chở cõi nhân gian và đó là tinh thần nhập thế của Phật giáo Thiền tông.


I.Tinh thần nhập thế của Phật giáo Thiền tông

Từ thiện có nghĩa là làm việc tốt từ lòng yêu thương cốt giúp người bớt khổ, cho người khác những gì có thể với lòng chân thành và trân trọng, kèm theo thông điệp ta muốn trao gởi đến người nhận.

Trên thế giới có nhiều quan điểm về từ thiện do nhiều tôn giáo chủ trương. Từ thiện theo Phật giáo là những việc làm tốt lành của người con Phật xuất phát từ lòng yêu thương với sự dẫn đường của trí tuệ vì mục đích muốn cho người khác được bớt khổ thêm vui. Đó chính là tư tưởng lục độ được thể hiện rõ nét qua hạnh bố thí của người con Phật. Lòng thương yêu của người tu Phật bao la rộng lớn dụ như mây, tỏa bóng che mát cho chúng sinh. Như vậy, từ thiện đã sớm có mặt trong giáo lý nhà Phật và là một phần trong sự nghiệp tu hành của người con Phật.

Trong kinh Pháp Cú có câu: “Các điều ác chớ làm, Các điều thiện vâng làm, Tự thanh tịnh ý mình”. Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng bảo:

Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.

Dựng cầu đò, dồi chiền tháp; ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;

Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi; nội tự tại kinh Lòng hằng đọc.[1]

Gồm tức là có cả hai cái. No tức là đầy đủ. Ta có cả hai cái, và ta được no bởi hai cái đó: Cái thứ nhất là phúc, cái thứ hai là tuệ. Phúc. Tuệ tức là hiểu biết. Phúc là khi mình tạo ra được niềm vui, tạo ra được hạnh phúc cho nhiều người, nhiều loài. Tuệ là khi ta có được cái thấy của một vị Bồ tát. Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc: Cốc có nghĩa là biết, là hiểu. Chỉ cái đó mới có thể làm cho ta trở thành con người hiểu biết, con người giác ngộ

Dựng cầu đò, giồi chiền tháp. Giồi tức là trau dồi, làm cho nó đẹp hơn, tốt hơn. Chiền tức là chùa, người ta gọi là chùa chiền. Chữ chiền do chữ thiền mà ra, thiền môn. Cửa chiền tức là cửa thiền. Chiền là tiếng Việt, thiền là tiếng Hán-Việt. Giồi chiền tháp tức là tu bổ chùa và tháp.

Đứng về phương diện tướng, ta có những công tác phải làm. Chỗ nào cần một cây cầu thì ta dựng cây cầu; chừng nào cần có một con đò thì ta thiết lập một con đò. Đó là những hạnh tu về phúc. Chúng ta thường nói có hai khía cạnh của sự tu học: Tu phúc và tu tuệ.

      

      

Phúc tuệ viên tu chơn phật tử;
Trí bi song vận đại từ tôn.
Dịch
Phúc tuệ tròn tu chính người Phật tử;
Trí bi đầy đủ ấy bậc đại từ.

Tu phúc là để có phúc đức, và tu tuệ là cốt được trí tuệ. Khi tu cả hai, ta gọi là phúc tuệ song tu. Chia ra làm hai nhưng kỳ thực là một ở tầng nghĩa sâu xa, hễ có tuệ tức là có phúc, hễ có phúc thật tức là có tuệ..

Ở câu đầu rõ ràng muốn dạy người con Phật bên cạnh việc tu trí tuệ phải tu cả phúc đức nữa, mà phúc đức chính là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người. Trong Phật giáo có từ bố thí, cách nói khác của sự cho đi, là một nghĩa cử cao đẹp mà con người thường thể hiện với nhau trong cuộc sống. Đó là cách chúng ta cho người khác những gì có thể với lòng chân thành và trân trọng, kèm theo thông điệp ta muốn trao gởi đến người nhận.

Thường thì sự cho đi ấy sẽ góp phần hỗ trợ và bổ sung những gì người khác đang cần để giúp họ vượt qua khó khăn, bức bách, cấp thiết trong cuộc sống về vật chất, đồng thời đem lại cảm giác ấm áp vì được quan tâm về tinh thần. Cùng một khái niệm “cho”, song tùy theo đối tượng nhận, trường hợp hay hoàn cảnh mà nghĩa của từ này có những tên gọi khác nhau như cho, biếu, tặng, cúng dường, bố thí…

Trong khi “hiến tặng” hay “cho” theo cách hiểu thông thường của nhiều người là sự chia sẻ vật chất, thì trong nhà Phật, nghĩa của từ này rộng hơn nhiều, bao gồm không chỉ bố thí vật chất (tu phúc), mà còn bố thí Phật pháp, bố thí sự không sợ hãi, cũng như góp phần đem lại sự bình an và hạnh phúc cho người và cho môi trường sống ta đang có mặt (tu tuệ). Đây chính là tư tưởng nòng cốt của Từ thiện Phật giáo bao trùm cả Từ thiện xã hội, bởi Từ thiện xã hội ở mức độ cạn đa phần chú trọng về mặt tu phúc.

Khái niệm “TỪ THIỆN” trong Phật giáo bao quát cả hai phương diện Phúc và Tuệ trong cuộc sống và ai trong chúng ta cũng có thể làm được. Đó cũng chính là ý nghĩa của đề tài chúng tôi chọn cho bài tham luận hôm nay.

Vì vậy cho nên đem đạo Phật đi vào cuộc đời có nghĩa là thể hiện những nguyên lý đạo Phật trong sự sống, thể hiện bằng những phương thức phù hợp với thực trạng của cuộc đời để chuyển hóa cuộc đời theo chiều hướng thiện mỹ. Chừng nào sức sống của đạo Phật được trông thấy dào dạt trong mọi hình thức của sự sống chừng đó ta mới có thể nói được rằng đạo Phật đang thật sự hiện hữu trong cuộc đời.

Sức sống ấy được thể hiện qua những hình thức sau đây mà chúng tôi xin lần lượt trình bày:

II. Mây lành tỏa bóng (ảnh hưởng của bố thí Phật giáo đối với sự hình thành, phát triển các quan niệm từ thiện xã hội)

  1. Tài thí:
  1. Bố thí tài vật (=ngoại tài: tặng của cải vật chất cho đời)

Theo quan niệm thông thường, bố thí thường được hiểu là sự hiến tặng tài vật, là sự chia sẻ tiền bạc, của cải, tài sản... đến những người cần giúp với sự cảm thông với người trong tinh thần “lá lành đùm lá rách” đượm tính nhân văn ở con người. Với một thái độ trân trọng hơn, sự bố thí tài vật về bốn phương diện thức ăn, y phục, thuốc men và chỗ ngủ nghỉ của người Phật tử dành cho chư Tăng Ni xuất gia được gọi là “cúng dường”.

Không chỉ cúng dường, hiến tặng qua việc bố thí rất được đề cao trong cộng đồng Phật giáo, nhất là ở các nước châu Á. Thường ở các nước như Việt Nam, bố thí tài vật là một pháp tu, được thực hành thường xuyên trong gia đình có truyền thống văn hóa Phật giáo. Khi thực hành bố thí, người con Phật cảm thấy trong lòng rất vui, vì đã thể hiện được tâm từ của mình qua nghĩa cử cao đẹp này. Với sự hiến tặng vật chất, người Phật tử gởi vào món quà trao tặng ấy một sự cảm thông sâu sắc, sự chia sẻ từ đáy lòng.

Theo lời Phật dạy, bố thí được xem là một loại hương thơm cao quý, tỏa ra cùng khắp, theo mọi hướng, tạo ra nhiều tiếng lành, danh thơm cho xóm làng hay cộng đồng nơi chúng ta sinh hoạt[2] Với nhiều người, chỉ bố thí tài vật thôi đã được xem là “biết tu” và họ quan niệm đó là “tu phúc”, cơ hội để tạo nhân giàu sang, sung sướng ở kiếp sau. (Sự hình thành Tư tưởng bố thí):

Như vậy, bố thí tài vật là một sự hiến tặng sự cảm thông và chia sẻ đầy tình người thật đáng trân trọng và phát huy. Những nỗi đau thực tế có thể dễ dàng quan sát như thiếu cơm, rách áo, nhà xiêu, bệnh tật ngặt nghèo không thuốc men chữa trị… có thể được vơi đi, xoa dịu nhờ tài thí.

Ngoài lợi ích ai cũng có thể thấy là giúp người qua cơn túng quẫn, bức bách, khổ đau, việc bố thí đồng thời cũng sẽ là món quà tặng lại cho chính người thực hành bố thí, đó là tạo cho người bố thí có cảm giác rằng mình xứng đáng với tư cách là một con người: có trí tuệ , có tâm lành, và có tính bao dung.

Bố thí tài vật, một nghĩa cử góp phần làm đẹp cho mình, cho người và cho đời ở nhiều mặt như vậy, tại sao ta lại bỏ lỡ cơ hội mà không thực hành? Hình thức này đang được nhiều nhà thiện nguyện, cơ quan từ thiện, các mạnh thường quân, các nghệ sĩ trong xã hội Việt Nam thực hiện như (Sự phát triển của Tư tưởng bố thí):

1. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (Viet Nam Red Cross Society)

2. Tổ chức phẫu thuật nụ cười (Operation Smile)

3. Hội từ thiện trẻ em Sài Gòn (Saigon Children’s Charity CIO)

4. Hội Từ thiện Minh Tâm Hà Nội

5. Tổ chức trẻ em Rồng Xanh (Blue Dragon Children’s Foundation)

6. Tổ chức từ thiện Quốc tế cho người tàn tật (Handicap International)

7. Tổ chức ActionAid Việt Nam (AAV)

Chúng ta thường thấy các tự viện, thiền viện làm từ thiện qua các hình thức trực tiếp ủng hộ các Quỹ chất độc màu da cam, Quà cho đồng bào nghèo, Học bổng cho học sinh nghèo, Cứu trợ đồng bào bị thiên tai bão lụt...

Hoặc gián tiếp ủng hộ tài chính cho chính quyền địa phương xây dựng cầu đường, cất Nhà tình nghĩa ...

Sự hiến tặng tài vật đáp ứng trực tiếp nhu cầu căn bản nhất của con người nên có ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống tương duyên tương kết này.

  1. Nội tài:

Nội tài là tài sản trong thân như mắt, tai, mũi, lưỡi, máu, các cơ quan bộ phận của cơ thể, kể cả sự sống thân mạng. Như chúng ta tham gia chương trình hiến máu nhân đạo hay hiến xác cho y học tức là đang làm một việc phúc đức là từ thiện nội tài.

Hiểu rộng thêm thì những nhà khoa học đem công sức nghiên cứu góp phần tạo ra sự phát triển của khoa học kỹ thuật để nâng cao đời sống con người, xã hội hòa bình và phát triển... là những nhà từ thiện đáng trọng. Các thầy cô giáo yêu nghề, yêu người cả đời đem tâm sức dạy dỗ học sinh hướng họ đi theo con đường tốt đẹp cũng là những nhà từ thiện...!!!

Trong những ngày Đại dịch COVID này những nhà khoa học nghiên cứu vaccine trị bệnh chính là những người bố thí nội tài lớn! Hành động của những bác sĩ, y tá, hộ lý, những anh bộ đội, công an dũng cảm quên mình cứu người cũng là những việc Bồ thí nội tài thật đáng kính!

B. Pháp thí:

1. Vô úy thí: tặng bình an cho đời

Vô úy thí là làm cho chúng sinh không sợ, hết sợ. Từ thiện bằng tấm lòng không để người nhận sợ hãi hay ghét bỏ mà họ cảm thấy như được thấu hiểu, thấu cảm, sẻ chia như người trong nhà. Giúp người không chỉ dừng lại ở vật chất mà còn phải nghĩ đến mục tiêu tinh thần: Tình yêu thương, sự đoàn kết, đạo đức.

Vô úy thí mang lại sự an ổn, không lo lắng, không sợ hãi cho chúng sinh đang khổ não như:

  • Phóng sinh
  • Cứu hộ loài côn trùng

Nơi tự thân, nếu biết thực tập hạnh lắng nghe, lúc đầu chỉ dùng tai mà nghe âm thanh, nhưng sau đó cả sáu căn đều có thể lắng nghe được hết. Nghe rồi suy ngẫm sẽ thấy không gì có thể nắm bắt được, như âm thanh gió thổi chuông ngân làm sao nắm bắt, ấy gọi là thật sự lắng nghe. Khi chúng ta mê muội thì sáu căn đều có thể hại người, không khác gì binh đao. Người đời chẳng đã nói ‘miệng lưỡi như gươm dao’ đó sao! Bồ-tát tu tập, sáu căn đã diệt, đã trở thành chân không, hết thảy mọi thứ trần cảnh đều giống nghe các thứ âm thanh, không thể nắm bắt, nên có thể tự giúp mình thoát khỏi sự sợ hãi và không gieo sợ hãi cho người.

Chúng ta bị thanh sắc hư vọng trói buộc còn bền chặt hơn xiềng xích, gông cùm. Bồ-tát tu tập đã diệt hết cả hai tính động và tĩnh, cho nên có thể quán chiếu và chuyển hóa những âm thanh hư vọng đưa về chánh chân, nhờ vậy thoát khỏi mọi trói buộc của thanh sắc giả dối. Bị thanh sắc trói buộc, quấy nhiễu gây sợ hãi nên chúng ta nhờ thực tập theo phương pháp này mà không bị thanh sắc trói buộc thân tâm. Thực hành được như vậy trước là bình an cho mình, sau há không phải là ban tặng sự bình an cho người sao!

2. Trì giới = tặng thiện lành cho đời

Vì nhu cầu vật chất quan trọng đến vậy, nên khi nói đến bố thí, nhiều người chỉ nghĩ đến sự cho tặng vật chất. Tấm lòng san sẻ của muôn người khi một người gặp rủi ro hay nạn tai là nỗi an ủi lớn lao đối với người đó. Thế nhưng, quá chú trọng về bố thí tài vật và “bỏ quên” phương diện bố thí Pháp thì hiệu quả của sự hiến tặng rất hạn chế, vì vật chất chỉ mang lại lợi ích tạm thời và ngắn hạn. Những thứ đó chỉ là chữa cháy chớ không ngăn được cái cháy. Chữa cháy mà không ngăn cháy thì chữa đến khi nào mới rồi? Vấn đề đạo đức nếu không được đặt nặng, không trở thành việc thiết yếu đối với con trẻ từ lúc 3 tuổi thì lớp này nối tiếp lớp kia, suốt đời cứ sống mà chữa cháy. Lớp trước chết đi biến thành lớp sau để mà trả nợ. Kẻ gây cháy thì nhiều, kẻ chữa cháy thì ít, biết đến khi nào mới hết cháy? 

Bố thí Pháp mới là cách hiến tặng món quà tinh thần và tâm linh vô giá ở đời, giúp cho người nhận học được kỹ năng sống hạnh phúc, bình an ở hiện tại và tương lai, “bảo hành” hạnh phúc không thời hạn cho người nhận. Đức Phật dạy, “Có hai loại bố thí: bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là bố thí tối thượng”[3] 

Pháp thí là đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác. Bỏ dữ theo lành, cải tà quy chính cũng là pháp thí. Pháp thí có giá trị lớn lao hơn cả tài thí. Vì tài thí chỉ giúp người khác bớt túng thiếu về vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là cứu giúp một đời người. Trong khi đó, Pháp thí là sự chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm tu tập để mở ra một con đường sáng, giúp người khác nghệ thuật sống thanh cao và hướng thượng, tĩnh lặng và an lạc. Đây là sự hiến tặng thiện lành, thanh thản, tự tại cho người khác. Sự hiến tặng này có giá trị vô cùng to lớn, có thể giúp người khác thay đổi cả cuộc đời theo hướng tích cực nhờ vào nhận thức, thái độ sống và những trải nghiệm thực tế của mình.

Người nhận giáo pháp sống với tâm an lạc lâu dài, vì hạnh phúc tinh thần cao quý và giá trị hơn nhiều lần so với sự thỏa mãn vật chất có từ tài thí. Do vậy, trong cuộc sống, chúng ta cần có cái nhìn xác thực hơn, lấy kinh điển làm nền tảng, thoát ra khỏi thói quen truyền thống là chỉ chú trọng tài thí, mà chúng ta cần thực hành cả hai phương diện tài thí và Pháp thí thì mới được lợi ích và công đức viên mãn hơn ở phương diện hiến tặng này. Sơ Tổ Trúc Lâm dạy:

Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;
Cầm giới hạnh, đoạn xan tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.[4]

Tích nhân nghì, tu đạo đức: một bên thì chất chứa, nhóm lại tình thương và sự biết ơn; một bên thì làm lớn lên cái đạo và cái đức của mình. Ai hay này chẳng Thích-ca, người nào mà không phải là Phật Thích-ca? Ai cũng là Phật hiện tại hết.

Tích nhân nghì,tu đạo đức phải chăng là nếp sống đạo đức, là giữ ngũ giới hay năm nguyên tắc sống dành cho người cư sĩ tại gia nhằm giúp người có lối sống thiện và lành mạnh, đồng thời hướng về con đường phát triển tâm linh trong cuộc sống đời thường. Năm tiêu chuẩn sống căn bản ấy được hiểu là: thứ nhất, tôn trọng quyền được sống nên không phương hại tha nhân và hạn chế đến mức thấp nhất sự sát hại sinh vật; thứ hai là tôn trọng quyền sở hữu tài sản hợp lý mà không tham lam, trộm cắp; thứ ba là tôn trọng quyền được hưởng thụ hạnh phúc chính đáng nên sống lành mạnh chỉ một vợ một chồng; thứ tư là ý thức được lợi ích cũng như tác hại của lời nói mà khéo sử dụng ngôn ngữ chân thật đem lại lợi ích; và cuối cùng là hiểu rõ giá trị của trí tuệ sáng suốt mà không làm cho tâm trí mê mờ bằng cách sử dụng quá mức các chất gây nghiện như rượu bia và các chất kích thích như ma túy… Đây là đạo đức cơ bản cho tất cả mọi người và là nền tảng để thiết lập hệ thống giới luật chi tiết và cụ thể cho người xuất gia.

Các nguyên tắc sống này phù hợp với tất cả những ai hướng đến đời sống đạo đức, thánh thiện, thanh tịnh, không luận là xuất gia hay tại gia. Thực hành các nguyên tắc này, chúng ta có nếp sống không lỗi lầm, bình an trong nội tâm, thân thiện với mọi người và chung sống hòa bình với môi trường xung quanh. Mỗi con người là tế bào của xã hội; nếu nhiều người trong cộng đồng có ý thức tự xây dựng cho bản thân mình nếp sống đạo đức mẫu mực này, cộng đồng sẽ bình an, cuộc sống nhiều niềm vui và mọi người sẽ tin yêu nhau nhiều hơn, cùng nhau kiến tạo một môi trường sống an hòa chung cho tất cả. Đây là cách thiết thực để hiến tặng thiện lành cho nhau và cho tất cả loài người, mọi loài, góp phần làm tươi mát môi trường ta đang sống. 

Những người nào cầm trong tay giới và hạnh và có thể cắt đứt được những sự ganh tị và sự tham đắm thì chính người đó là hiện thân của Phật Di-lặc. Ta đã biết chữ cầm ở đây có nghĩa là trì. Trì giới tức là cầm giới ở trong tay.

Ngày nay chúng ta chỉ dùng chữ trì giới mà không dùng chữ cầm giới nữa. Kỳ thật chữ cầm giới nghe dễ hiểu hơn nhiều. Cầm giới và cầm hạnh. Giới được biểu lộ ra thành hành động. Hành động có chánh niệm, hành động không làm tan nát gọi là giới hạnh. Không có giới thì có sự tan nát. Hành động không có giới là hành động phá hoại, nếu có giới thì hành động là hành động xây dựng.

Giới là ngăn ngừa và làm chủ cảm xúc, còn gọi là hộ trì các căn, là khả năng kiểm soát, quản lý và điều khiển những hành động có tính bản năng của con người để không dính mắc và khổ đau. Khi làm chủ tâm ý, dù mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm và ý nhận thức các pháp trần mà không đuổi theo, không dính mắc thì chúng ta rất tự tại. Phương pháp hộ trì các căn được Đức Phật giảng giải khá chi tiết rằng, khi các căn tiếp xúc với môi trường bên ngoài, không đắm nhiễm, không để những đặc điểm tổng quát và các đặc điểm chi tiết của các yếu tố bên ngoài hấp dẫn, lôi cuốn ta thông qua các cửa ngõ giác quan. Những nguyên nhân gì khiến các căn không được chế ngự, khiến cho ta khởi tâm tham ái, lo buồn, bất an, các suy nghĩ xằng bậy, xấu ác khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì các căn, thực hành sự hộ trì các căn. Rất nhiều kinh diễn tả nội dung này, tiêu biểu như: Trung bộ kinh, số 39: Đại kinh xóm ngựa; kinh số 53).  Nếu để những ham muốn tầm thường tự do hành hoạt, con người chỉ biết thỏa mãn dục vọng, bất kể sự thỏa mãn ấy đem lại nỗi khổ niềm đau cho người khác. Một khi không đặt dưới sự kiểm soát của tâm ý, con người có xu hướng muốn thỏa mãn dục vọng bằng mọi giá, bất chấp thủ đoạn. Bản năng thỏa mãn dục vọng thấp kém là động lực mạnh mẽ, vì những gì mang tính bản năng thường rất hung hãn và hoang dã. Sống thuần túy với cảm xúc mà không có tuệ quán soi đường dẫn lối, con người quờ quạng trong vùng mù của vô minh, nghĩa là ta ngu si câu móc cái tham trong tâm với cái bẫy mỗi ở bên ngoài, để rồi chuốc lấy khổ đau lâu dài.

Phật giáo Thiền tông không bảo ta đừng tiếp xúc với môi trường bên ngoài để giữ tâm an tịnh, vì điều đó không thể, khi trần cảnh luôn có mặt quanh ta. Cách thực tế và hiệu quả nhất là ta hãy làm chủ được tâm ý, kiểm soát, làm chủ và điều khiển được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để không chìa những cái móc tham dục vào cái bẫy của sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp, nhờ đó không tạo đau khổ cho mình và cho người.

Đoạn ghen tham. Ghen tức là sự ganh tị. Ganh tị với anh, ganh tị với em, ganh tị với chị. Khi có sự ganh tị, ta mất tất cả những cái đẹp của mình. Vì vậy đoạn ghen tham, chính thực đó là Phật tương lai (đức Di-lặc).

3. Thực tập thiền định: tặng thanh thản cho đời

Đức Phật dạy chư đệ tử phương pháp duy trì chánh niệm [5] như sau: trước hết, phải chọn một môi trường thích hợp để hành thiền. Nơi ấy cần yên tĩnh, thanh vắng mà theo truyền thống trong kinh là “một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm”. Một nơi như thế sẽ hỗ trợ tốt cho hành giả tập trung quán chiếu tâm mình mà không bị sự chi phối của môi trường xung quanh. Thời điểm tốt nhất để thực hành thiền chánh niệm này là “sau khi ăn xong và đi khất thực trở về”. Để có thể minh mẫn thực hành thiền, Đức Phật dạy chư đệ tử một cách rất khoa học là không ăn quá nó, nếu không, sẽ sanh tâm lười biếng, uể oải, buồn ngủ, ngầy ngật, không thể thiền quán được. Tư thế ngồi là kiết-già, lưng thẳng và bắt đầu an trú chánh niệm trước mặt.

Tổ Trần Thái Tông nói:

Tuy thọ được tất cả tịnh giới, mà không tọa thiền thì định lực chẳng sanh; định lực chẳng sanh thì vọng niệm không diệt, muốn được kiến tánh, thật là khó vậy. Đức Phật Thích-ca vào núi Tuyết, ngồi ngay thẳng sáu năm, chim cáp làm tổ trên đầu, cỏ tranh mọc xuyên qua bắp vế, mà thân tâm thản nhiên. Tử Cơ ngồi tựa ghế, thân như cây khô, tâm tợ tro tàn. Nhan Hồi ngồi quên, tay chân rời rã. Đuổi thông minh, lìa ngu trí, đồng với đại đạo. Đó là các bậc Thánh Hiền trong tam giáo ngày xưa, đã từng ngồi định.[6]

Chúng ta thấy những bậc Thánh, bậc Hiền trong Phật giáo, Khổng và Lão vẫn ngồi thiền cho tâm được an định. Vì ngồi thiền mới có sức mạnh kềm chế được vọng tưởng, nếu không thì e không có khả năng chinh phục được nó. Đó là thiền của Phật giáo.

Trong phạm vi từ thiện phát triển thì THIỀN để làm gì? Chúng ta có thể áp dụng phương pháp khoa học để phân tích khía cạnh tâm linh và thực nghiệm của thiền. Mục đích là để hiểu rõ và điều chỉnh hệ thống hoạt động của não bộ, là phương pháp tương tác giữa Tâm-Pháp-Não bộ, quy chiếu với Thân-Tâm-Trí tuệ tâm linh của con người, giúp cho chúng ta được cân bằng và hài hòa. Thuật ngữ nhà thiền gọi là hài hòa, chính là mình hài hòa được các chất sinh hóa học trong não bộ của mình. Khi tâm chúng ta yên lặng được thì hệ đối giao cảm hoạt động, các đầu dây của hệ này sẽ tiết ra chất Acetylcholine (...) giúp cho thể trạng chúng ta được cân bằng và hài hòa. Với cách thực hành này, thân tâm chúng ta sẽ có được những lợi ích sau đây:

  • Thân ta khỏe mạnh là do nội tạng của ta đã cân bằng các chất sinh hoá học.
  • Tâm ta từ dính mắc nhiều đến bớt dính mắc, và sau cùng là không còn dính mắc. Hoặc khi biết có dính mắc, ta biết cách chận đứng ngay sự dính mắc đó nhẹ nhàng.
  • Đầu óc hay thần kinh ta không còn căng thẳng vì những bất toại nguyện trong    cuộc đời. Hoặc khi có căng thẳng, ta biết cách chận đứng liền tức khắc bằng những phương pháp Thở trong Thiền.
  • Tâm trí ta không còn xáo trộn, không còn lăng xăng, dính mắc. Những lo âu, sợ hãi bị xua tan. Thành kiến, định kiến, thiên kiến chủ quan từ lần “mỏng đi.” Ta thường an trú trong chánh niệm tỉnh giác.
  • Trí tuệ tâm linh của ta sẽ được phát huy từ lần qua những phương thức thực hành trong các chủ đề của Quán, Chỉ, Định, Huệ.
  • Và sau cùng là ta có khả năng phục vụ gia đình và xã hội tốt hơn:
  • Ta không buông trôi trách nhiệm hay bổn phận của ta trong gia đình, trong sở làm, hay trong hội đoàn. Vì khi trí tuệ tâm linh của ta đã được khai mở, thể chất của ta sẽ được khỏe mạnh qua sự cân bằng các hệ thống chất nước hóa học trong nội tạng và cơ thể, ý thức trách nhiệm của ta sẽ tự động lên cao.
  • Tinh thần ta không bại hoại: không mê tín, không bi quan yếm thế, không ngồi chờ ngày chết khi mình còn đang khỏe mạnh và đang sống để làm việc.
  • Ta hoàn toàn đổi mới nhận thức. Ta tin tưởng pháp của Phật. Chỉ vì ta đã kinh nghiệm được hỷ lạc thực sự qua các phương thức thực hành trong Chỉ, Quán, Định, Huệ.[7]

Vì thân tâm của ta đã hài hòa thật sự: Ta sẽ kinh nghiệm sống an vui, thanh thản thật sự.

4. Thực hành trí tuệ sáng suốt : tặng tự tại cho đời

Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ây phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí[8]

Công danh tức là sự thành công về vật chất ở trong cuộc đời. Danh là tiếng tăm, những người chạy theo tiền bạc và tiếng khen. Chuộng công danh tức là những người cho rằng công danh là quan trọng nhất ở trên đời này. Đó là những người phàm ngu (thực ấy phàm ngu). Những người đó, họ lồng vào trong ngực của họ, họ lồng vào trong đời sống của họ cái ý niệm về nhân và về ngã, kỳ thị mình và người. Đó là những kẻ phàm phu.

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí: Say ở đây tức là mến chuộng, mến chuộng đạo đức. Dời có nghĩa là thay đổi, ở đây có nghĩa là chuyển hóa. Dời thân tâm tức là chuyển hóa thân tâm. Mến đạo đức, chuyển hóa thân tâm là điều quyết định cho ta hoàn thành được thánh trí. Thánh trí là cái hiểu biết sâu sắc về đạo, về thực tại.

Tổ Trần Thái Tông nói:

Tuệ sanh từ sức định. Nếu tâm định thì gương tuệ sanh, nếu tâm loạn thì gương tuệ diệt. Cũng như chiếc gương bằng đồng trước phải nhờ mài giũa, sau mới trong sạch soi sáng. Nếu chẳng mài giũa thì tỳ vết bụi nhơ phủ tối. Đã bị bụi nhơ phủ thì ánh sáng làm sao mà sanh? Cho nên trí tuệ do định hiện, định tuệ nương nhau không thể thiếu một.[9]

Nghĩa là gương bị bụi nhơ phủ kín thì làm sao có ánh sáng. Cũng vậy, nếu tâm loạn tưởng thì trí tuệ không thể sanh. Trí tuệ sanh là do có sức an định. Nhưng ở đây nói theo lối nhìn của Nhị thừa, luôn luôn đặt trước có giới, sau có định, rồi mới có tuệ. Nếu nhìn theo tinh thần của Lục Tổ thì định tuệ bình đẳng. Định và tuệ không tách rời nhau, có định tức có tuệ, có tuệ tức có định. Tại sao vậy? Vì đối với Thiền tông chúng ta không phải đợi tâm an định viên mãn mới phát ra trí tuệ. Nếu vậy thì định trước tuệ sau, mà Thiền tông nói định và tuệ đồng thời, trong định có tuệ, trong tuệ có định, hai cái không tách rời nhau được. Do đâu để chứng nghiệm điều này. Thí dụ hằng ngày chúng ta ngồi thiền thấy vọng không theo. Vọng dấy là động, mình biết nó, nó lặng xuống, thì cái biết vọng là tuệ, vọng lặng là định. Do đó không phải đợi khi tâm an định hoàn toàn chúng ta mới có tuệ, mà chính khi nó đang dấy động chúng ta vẫn có trí tuệ thấy biết, không theo thì được an. Hiểu như vậy mới biết tinh thần Thiền tông mà Lục Tổ đã nói là Định Tuệ bình đẳng. Nếu vọng dấy lên chúng ta thấy thì cái thấy vọng để không theo đó là tuệ. Nhưng khi vọng lặng hết không còn nữa thì lúc đó tuệ đang ở đâu? Tuệ ở chỗ biết vọng đang yên. Như bây giờ không có vọng thì ai biết không vọng? Khi vọng dấy lên nó biết, khi không vọng nó cũng biết, thì cái biết trước là tuệ, cái biết sau cũng là tuệ, cho nên lối tu này phù hợp với xã hội hôm nay, vì không phải đòi hỏi phải vào rừng núi yên tĩnh mới tu được . Hiểu cho thật kỹ mới rõ được ý nghĩa tu thiền và lúc đó sẽ thấy thân tâm tự tại, lan tỏa sức tự tại đến tha nhân. Và đó là trí tuệ trong nhà Phật. Nếu dùng trí tuệ này trong cuộc sống, trong xã hội, thì sẽ thoát ra được bao lụy phiền ràng buộc vì “Phật pháp bất ly thế gian giác!”

Nền tảng căn bản chung của nếp sống này là rèn luyện các quy điều đạo đức (giới), sự định Ltĩnh của tâm (định) và sử dụng trí sáng suốt (tuệ) để sống và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hợp lý mà hợp tình, được việc mình mà thuận lòng người, để cùng nhau sống trong an vui và hạnh phúc thật sự. Chỉ phương pháp bố thí trong Lục độ của Phật giáo mới có đủ ba nội dung này.

III. Hành trang vào đời của các thiền sinh

Bài tham luận này là một gợi mở về các cách hiến tặng trong Phật giáo thông qua sự thực hành pháp tu Bố thí đem lại lợi ích thiết thực cho mình và cho người. Nhưng thiết nghĩ trước khi bố thí hay hiến tặng thì người thực hiện việc làm đó phải như thế nào thì mới có sức lan tỏa và đạt kết quả tốt.

Nếu ta quan niệm đạo Phật như những nguyên lý của sự giác ngộ cần được thể hiện trong cuộc đời thì ta sẽ thấy rằng có những lúc, vì khả năng thể hiện thiếu kém, ta đã không đích thực làm hiển lộ được đạo Phật trong cuộc đời, trong sự sống. Chính đức Phật và các vị tổ sư thiền tông đã nhắc nhiều đến điều đó.

Bởi con người ấy nhờ trải qua quá trình tu tập, tôi luyện  trong thời gian dài để vượt lên trên, không còn bị sai sử bởi dục vọng và đắm chìm trong cuộc đời nữa.

Nhưng những chất liệu làm nên con người như thế là gi? Nói theo ngôn ngữ Phật giáo Thiền tông, đó là:

  1. Vô sanh Từ nhẫn lực:

Vô sanh Từ nhẫn lực có nghĩa là sức nhịn chịu một cách vui vẻ bằng trí tuệ, là một kỹ năng sống trước cuộc đời đầy biến động. Tại sao ta phải tập hạnh nhẫn nhục này trong khi làm từ thiện?

Trường hợp thứ nhất là nhịn chịu sự đòi hỏi quá đáng ở nội tâm mình, đó là tham tiền của, tham danh vọng. Nếu thõa mãn những thứ tham đó thì việc làm từ thiện của mình sẽ mất đi ý nghĩa. Thứ nữa, bản thân chúng ta khi gặp cảnh bức ngặt như muỗi mòng, nóng lạnh, đói khát trong khi đi cứu trợ ở vùng sâu, vùng xa, nơi đồng bào thiểu số cư ngụ, nếu không có sức nhẫn chịu thì thể không làm được.

Đối với tất cả những điều trái ý nghịch lòng không phản ứng vội vàng theo bản năng phiền não mà cần bình tĩnh, điềm đạm, suy xét đúng sai rồi mới chọn cách ứng xử thích hợp. Đó là khi bị người được cho tức đối tượng nhận quà mà mình hiến tặng trở lại mắng nhiếc, xúc phạm khi mình phân phát quà chậm đến tay họ. Hoặc có kẻ mù đưa tay cho ta dìu ra khỏi đường nguy hiểm, song giữa đường vấp phải những hòn đá nhỏ, hay chạm phải những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ dìu đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta dìu, lại còn mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc gì? Lúc ấy cần  nhớ lời Phật dạy chúng ta nhẫn không phải là gồng mình chịu, mà nhẫn với cái nhìn bằng trí tuệ biết như thật, nên rất nhẹ nhàng, êm ái. Phật dụ người dữ mắng chửi người hiền giống như kẻ ngậm nước bọt ngửa mặt phun trời xanh và Phật cũng nói: “Người dữ muốn hại người hiền giống như người đứng ngược gió ném bụi”. Như vậy người hiền bị người dữ hại vẫn bình thản không buồn, vì thấy việc làm ác của họ không có tác động dến mình. Trong nhà thiền có câu:”nghe những lời ác như gió thoảng qua cây” hoặc như Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận dạy “việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm”. Thế nên phải sáng suốt nhìn cho thấu cái lý thật của mọi sự việc đến hay đi, mà buông xả bỏ qua không buồn không giận.

Hình ảnh của Bồ tát Quán Âm tay cầm nhành dương liễu và tay cầm tịnh bình là tượng đài tiêu biểu nhất cho người làm từ thiện nghĩa là khi chúng ta ra làm từ thiện phải trang bị cho mình tấm lòng thương yêu và hạnh nhẫn nhục. Tay mặt cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm bình thanh tịnh dựng nước cam lộ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lộ rưới mát chúng sanh. Cành dương liễu nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí, tức là tuy chìu theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. Vô sanh Từ nhẫn lực trong nhà Phật nói lên một sức chịu đựng mạnh mẽ phi thường.

2Tinh tấn

"Tinh" là chuyên, là thuần. "Tấn" là tiến tới. "Tinh tấn" là chuyên cần tiến tới theo một chiều hướng tốt đẹp, lợi ích, sáng suốt và an vui. Người Phật tử tu đức tinh tấn là tiến mạnh, tiến mãi trên con đường từ bi xa thẳm, dưới ánh sáng mặt trời giác ngộ. Đức tinh tấn là một sức mạnh cả quyết, quả cảm, quét sạch, dẹp tan mọi trở ngại, mọi khó khăn để tiến tới mục đích tự lợi, lợi tha viên mãn. Nếu thiếu đức tinh tấn, con người sẽ là cánh bèo bấp bênh ngoài bể cả, là chiếc lá rơi lảo đảo theo chiều gió đưa!

Trên đường làm từ thiện đâu phải toàn hoa và bướm mà rất nhiều hầm hố, chông gai; nếu người không quyết tâm dũng tiến rất dễ ngã lòng lùi bưng. Tinh tấn là then chốt của đạo làm người, của đạo từ bi. Tinh tấn là một sức mạnh, là sự định đoạt đời người trên đường vinh quang, trong bầu không khí ngát hương thanh tịnh.Tinh là tinh chuyên, thuần nhất, không xen tạp, tấn là đi tới không thoái lui. Tinh tấn là luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến tới một mục đích toàn thiện, tốt đẹp, sáng sủa, an vui. Theo nghĩa thông thường, tinh tấn nghĩa là siêng năng, chuyên cần. Nhưng chữ tinh tấn trong đạo Phật có hàm nghĩa chuyên cần, siêng năng để đạt một mục đích chân chính tốt đẹp, đó là mục đích vị tha chứ không phải siêng năng trong mục đích thiếu tốt đẹp, hẹp hòi, ích kỷ. Trong khi làm từ thiện xã hội, nếu gặp khó khăn như mưa bão, xe hư, côn đồ đón đường hành hung chúng ta liền chùn bước thì thiện nguyện ắt không làm tròn.

Ta hãy nghe Đức Phật dạy: “Ta tinh tấn nỗ lực thêm lên mãi, để đạt được mục đích cao thượng nào mà ta chưa đạt được, để làm chủ các phép mà ta chưa làm chủ được, để thực hiện những đức tính nào Ta chưa thực hiện được. Siêng năng tinh tấn thì không việc gì là khó. Giọt nước tuy nhỏ mà thường chảy cũng làm xuyên thủng đá. Nếu các thầy hành đạo mà tâm còn biếng nhác, trễ lười thì đạo quả khó thành, ví như người dùi cây lấy lửa, cây chưa nóng mà đã thôi không dùi nữa thì lửa làm sao có được? Thế cho nên các thầy phải chuyên cần tinh tấn”.

Nhờ nhẫn nhục và tinh tấn thực hành pháp thấy biết như huyễn (TRÍ) nên hưng khởi lòng yêu thương (BI) và không sợ hãi (DŨNG) nên hành giả an nhiên vào đời để phụng sự.

Nhờ được chuẩn bị đầy đủ và kỹ lưỡng hành trang vào đời nên người con Phật không làm rối rắm thêm cho đời như quan niệm của các ẩn sĩ bên Lão Trang gán cho những bậc hiền hăm hở nhập thế cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, như nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp... ‘[10]

Đức Phật dạy muốn dâng hiến những quà tặng cho cuộc đời để cứu giúp chúng sinh bằng nhiều phương thức như bố thí, trì giới, thiền đinh, trí tuệ đòi hỏi con người giác ngộ đó phải có đầy đủ nhẫn lực và sự tiến lên không mỏi mệt để vượt lên trên những khó khăn, phiền lụy, khổ đau của cuộc đời. Có được như thế thì việc làm từ thiện của chúng ta mới trọn vẹn và đúng nghĩa.

IV. Kết luận

Sống trên đời, biết hiến tặng những gì tốt đẹp nhất là cách ta trả ơn đời thiết thực nhất. Với những cách hiến tặng trong Phật giáo, chúng ta thấy rằng ai cũng có khả năng hiến tặng nhiều thứ cho cuộc đời này. Nếu có khả năng về tài vật, ta có thể chia sẻ chúng với người khác, bằng không, ta sẽ hiến tặng những món quà phi-vật-chất như hướng dẫn người sống thiện lành theo lời Phật dạy qua món quà Pháp thí cao thượng.

Thực thi sự hiến tặng, không nhất thiết chỉ là những món quà có giá trị vật chất, mà ở những món quà cao quý hơn là bình an và hạnh phúc đến từ sự thực hành một nếp sống đạo đức, trau rèn nghị lực để làm chủ bản thân, tập lòng khoan dung, nuôi dưỡng tâm ngay thật và lương thiện của mình nữa. Và “để gió cuốn đi” còn có nghĩa “Hãy quên đi” khi ta làm một việc thiện xuất phát ở lòng từ tâm. Để gió cuốn đi vào quên lãng, không cần nhắc tới, không cần ai biết để làm gì… chính là tấm lòng yêu thương, sự quan tâm đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ người khác với tất cả chân thành. Đó là BỐ THÍ BẤT TRỤ TƯỚNG mà Thiền tông khuyên ta hướng tới.

Với sự hiến tặng đa dạng và phong phú qua việc làm từ thiện như vậy, chúng ta cùng chung tay xây dựng một thế giới rộng mở, một cuộc sống an hòa và hạnh phúc được kết tinh từ những chất liệu của trí tuệ và tình thương yêu chân thật nhất.

THƠ TÓM KẾT

Bố thí chia sẻ an bình

Trì giới hiến tặng thiện lành thế gian

Kham nhẫn sóng gió bất bình

Tinh tấn làm thiện san bằng khó khăn

Thiền định thanh thản nơi lòng

Trí tuệ tự tại thong dong giữa đời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  • Thích Thanh Từ, 1996, Khóa Hư Lục giảng giải, nxb Tổng Hợp Tp HCM.
  • Thích Thanh Từ, 2005, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, nxb Tổng Hợp Tp HCM.
  • Thích Minh Châu2018, Tăng chi bộ kinh, nxb Tôn Giáo.
  • Thích Thông Triệt, 1997, Đồ Thị Dẫn Giải Thiền 2 tập, Riverside, Nam California, Tài liệu phổ biến nội bộ.
  • Nguyễn Duy Cần, 2015, Cái Cười Của Thánh Nhân, nxb Trẻ. 

 

 

 


[1] (Thích Thanh Từ, 2005, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 8, nxb Tổng Hợp Tp HCM, P. 190).

[2] Thích Minh Châu, 2018, Tăng chi bộ, chương 3 pháp, phẩm VIII, kinh số 79, nxb Tôn Giáo, p.256.

[3] Thích Minh Châu, 2018, Kinh Phật thuyết như vậy, chương IV, phẩm I, Iti 101;  Tăng chi bộ kinh, chương Hai Pháp, phẩm XIII, nxb Tôn Giáo, p.254.

[4] Thích Thanh Từ, 2005, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 4, nxb Tổng Hợp Tp HCM, P. 185.

[5] Thích Minh Châu 2018, Tương ưng bộ kinh, tập V, chương II, phẩm 1, NXB Tôn Giáo, p,252

[6] Thích Thanh Từ, 1996, Khóa Hư Lục giảng giải, Luận Gương Tuệ Giáo, nxb Tổng Hợp Tp HCM, P. 216-217.

[7] Thích Thông Triệt, 1997, Đồ Thị Dẫn Giải Thiền 2 tập, Riverside, Nam California, Tài liệu phổ biến nội bộ.

[8]  Thích Thanh Từ, 2005, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 10, nxb Tổng Hợp Tp HCM, P. 194.

[9] Thích Thanh Từ, 1996, Khó

view(392)

0 Comments

Add new comment