MÀU XUÂN TRONG ÁNH MẮT
Trên vạn dặm đường đời nẻo đạo đã đi qua, con bắt gặp nhiều đôi mắt. Có những đôi mắt “u ẩn chiều lưu lạc” làm con chạnh lòng, có những đôi mắt “đỏ ngầu như tóe lửa” làm con kinh sợ, có những đôi mắt “điên cuồng trong hoan lạc” khiến con khởi lòng bi mẫn, có những đôi mắt “thảng thốt kinh hoàng” trước cuộc sinh ly tử biệt khiến con thương cảm dạt dào. Khi tiếp xúc với Tam tạng giáo điển, con thấy có câu “từ nhãn thị chúng sanh” của chư Phật khiến con hâm mộ, nhưng ngặt nỗi các Ngài cách xa con quá. Thế nên, mắt thương gần gũi nhất, nhìn con hằng ngày, chính là đôi mắt của ân sư.
Nếu như nói “Những cảm xúc, tâm trạng của con người được thể hiện rõ nét nhất qua đôi mắt” thì với con, đôi mắt của thầy gây ấn tượng nhất. Đó là từ khi con lên Chân
Không đi tu cho đến bây giờ. Nhìn đâu con cũng thấy ánh mắt của Thầy, ánh mắt đó từng làm con khiếp sợ vì vẻ uy nghi, dù chứa cả mùa Xuân nhưng rất đỗi nghiêm
khắc. Cả mùa xuân là vì theo Hán Tự Tố Nguyên, nguồn gốc chữ Xuân 春 gồm 3 bộ phận: 日 (nhật: mặt trời), 艸 (thảo: cỏ) và 屯 (đồn: tụ họp) nghĩa là nhờ nắng ấm mà mầm non trổi dậy tức chỉ cho sự sống, niềm vui vẻ hân hoan và theo tinh thần Thiền tông, bậc tu hành đắc đạo là sống với mùa xuân miên viễn tức không rời sức sống mạnh mẽ dài lâu, tươi vui đó. Màu Xuân là màu xanh mơn mởn của lộc non nhụy biếc, tràn đầy sức sống, vừa nhìn thấy là có cảm giác tươi mát, khỏe khoắn. Cũng thế, mỗi lần nhìn Thầy, con cảm thấy hạnh phúc pha lẫn hồi hộp tim run. Hạnh phúc vì ánh mắt hàm chứa sự tươi vui; hồi hộp vì sự mạnh mẽ ẩn tàng trong đó. Mãi cho đến bây giờ ánh mắt đó vẫn còn sức mạnh. Theo truyền thống đạo học Đông phương nói, nếu là người tu hành thiền định thâm sâu thì ánh mắt của các bậc ấy có thần. Quả đúng như vậy! nội lực thâm hậu của Thầy toát lên đôi mắt khiến cho hàng đệ tử đệ tôn môn hạ thiền phái Trúc Lâm đều phải cúi đầu, kính nể. Cũng nhờ vậy mà tất cả đều tuân theo lời giáo huấn của Thầy một cách nghiêm túc.
Từ lâu con đọc được trên ánh mắt đó cả một khung trời hiểu biết mênh mông, một đại dương thương yêu bát ngát, nhất là một nhãn lực phi thường mà con nghĩ không chỉ riêng con mới cảm nhận được. Khi làm việc trong Ban Văn hóa Thường Chiếu, con thử thăm dò thì quý Ni trưởng, Ni sư đều có cảm nhận không khác gì con. Với hơn một trăm đầu sách, hơn ba trăm hội thuyết giảng thì quả là một bầu trời tri thức, một năng lực phi thường, ít ai làm nổi. Bên cạnh đó là nỗi gian lao trên tuyến đường giảng dạy từ Chơn Không xuống Thường Chiếu và các Chiếu trong thập niên 75-85, rồi từ Trúc Lâm đến Chơn Không, Thường Chiếu và các Chiếu khoảng thời gian 1995-2005. Động lực nào đã thúc đẩy bậc Thầy làm nên điều đó, nếu không phải là tình thương dành cho hàng hậu học như sông dài biển cả!? Đến nỗi khi thân bệnh nhiều, mặc dù ít nói nhưng Thầy vẫn giữ được phong thái tươi vui để giúp chúng con vững niềm tin tiến bước! Ôi! nói sao cho hết tấm lòng của Thầy, ân sư của con!
Thầy không nói bình yên ban pháp lạ
Con lặng thầm nghe Bát-nhã âm vang
Phương Thường Chiếu nắng ngời trên hoa lá
Trời Chơn Không sương ngọt thấm vô vàn.
Thầy không nói nhưng mắt nhìn từ ái,
Từ thẳm sâu của chiều kích con tim
Con cảm nhận nên cúi đầu sụp lạy
Lòng hân hoan tiếp đuốc lửa hoằng truyền.
Kính bạch Thầy,
Còn nhớ trong những lần chúng con xúm xít bên Thầy trong khi lặt đậu vào năm 1975-1976, Thầy có dạy: “Mấy chú phải hiểu biết cho tường tận việc mình đang làm, như đường lối mình đang học, đang tu chẳng hạn”. Con rất tâm đắc câu nói này nên dành ra nhiều thời gian nghiên cứu lý thuyết và thực hành chủ trương của Tông môn, không làm việc gì khác dù cuộc đời trải qua nhiều đổi thay và con cảm nghiệm kết quả đúng như lời Thầy nói.
Hiện tại tuy Thầy không nói nhiều nhưng trong ánh mắt Thầy ẩn chứa, gửi gắm lắm đạo lý hay đẹp, thiền sinh nào có khả năng đọc được sẽ cảm nhận lợi ích. Nhìn vào ánh mắt Thầy, con luôn luôn tự hỏi lại lòng mình rằng: Mình có tu học tốt như lời Thầy dạy chưa? Nhu cầu hưởng dụng của thân tâm có vượt ngưỡng Thầy cho phép không? Đức hạnh mình có gì khiếm khuyết chăng? Bởi có duyên lành qua những tháng năm làm thị giả, con đã học hỏi được nhiều điều từ bậc Thầy gương mẫu, mực thước nên con thường lấy phong nghi của Thầy làm chỉ nam trên bước đường hướng thượng.
Trong nhà thiền hay dùng từ “Chánh pháp nhãn” để chỉ cho trí tuệ vô sư, cũng chỉ cho mùa xuân miên viễn, và chúng con cảm nhận được mùa xuân này có nơi Thầy. Nhờ “Chánh pháp nhãn” ấy mà đàn chim nhỏ chúng con mới có thể bay cao, bay xa đến khắp mọi miền đất nước, đôi khi đến tận trời Tây để mang niềm vui chánh pháp gieo rắc cho mọi người.
Con thiết nghĩ, sở dĩ bản thân tu hành được cho đến ngày nay, có những thành tựu nho nhỏ đóng góp vào Tông môn là cũng nhờ ánh mắt đó nên con hết sức cảm niệm ân đức bậc Thầy khả kính và nguyện cố gắng tu học cho đến nơi đến chốn ngõ hầu tái hiện màu xuân trong ánh mắt giống bậc ân sư.
0 Comments
Add new comment