LĂNG MỘ NHÀ TRẦN
LĂNG MỘ NHÀ TRẦN
Với vùng đất thiêng Long Hưng-Hưng Hà, Thái Bình
Tham luận
Từ ngàn xưa cho đến hôm nay, đối với những bậc vĩ nhân thuộc mọi lãnh vực, trước sự tỏa sáng về trí tuệ hoặc đạo đức hoặc tài năng của các ngài, người đời thường sùng bái khát ngưỡng. Ngưỡng mộ thôi chưa đủ, còn có điều gì đó thôi thúc khiến người ta tìm về nơi phát tích, nơi chôn nhau cắt rốn của các bậc thiên tài đó. Và những vùng thường được gọi là “địa linh nhân kiệt” cũng hay mang màu sắc lung linh huyền thoại khi sản sinh ra những trang anh tuấn.
Trong ba vị vua đầu triều Trần, đức vua Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh trong lịch sử Việt Nam; người giữ vai trò quan trọng lãnh đạo quân và dân Đại Việt đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285) và lần thứ 3 (năm 1288). Đặc biệt, sau khi nhường ngôi cho con trai, Ngài đã xuất gia tu hành và sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng. Ngài là Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm ở Việt Nam. Khi lập ra Thiền phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất các thiền phái có mặt truớc đó và toàn bộ giáo hội thời Trần về một mối. Những cống hiến to lớn của Ngài đối với sự nghiệp Phật giáo Việt Nam đã được tín đồ Phật tử cung kính suy tôn là “Phật Hoàng”. Cống hiến của Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông với lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, có ý nghĩa rất quan trọng.
Vùng đất Long Hưng - Hưng Hà không chỉ là quê hương, nơi phát tích, dựng nghiệp, hưng nghiệp của vương tộc triều Trần, mà còn là nơi đặt tôn miếu các liệt tổ, liệt tông, Hoàng thân quốc thích nhà Trần, trong đó có Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình viết về Vương triều Trần, mặc dù đã có nhiều nhà sử học Trung ương và địa phương Thái Bình, Nam Định nghiên cứu sâu về con người và sự nghiệp thời Trần, nhưng đến nay vẫn còn tồn tại không ít ý kiến khác nhau về một số vấn đề, sự kiện, nhân vật lịch sử thuộc giai đoạn này như nơi phát nghiệp vương của Vương triều Trần ở địa phương nào? Nam Định hay Thái Bình? Chính vì điều đó nên việc tiếp tục đi sâu tìm hiểu cốt yếu làm rõ và khẳng định những đóng góp của con người vùng đất Hưng Hà - Long Hưng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước của triều Trần và Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông, và cũng nhằm nói lên lòng tri ân vô bờ của các thế hệ đối với thân thế, sự nghiệp của vị vua anh hùng tài đức vẹn toàn này.
Trong lịch sử phong kiến nước ta có 2 vấn đề: Tôn miếu và xã tắc, là 1 mục tiêu quan trọng của mỗi vương triều. Xã tắc là đất đai cương vực, cộng với sức dân trăm họ, đó là cái sở hữu của vương triều. Xã tắc an hay nguy thì vương triều vững hay đổ. Tôn miếu và Lăng tẩm, cùng đền miếu thờ tổ tiên và các tiên đế, hoàng hậu là khí thiêng âm trạch truyền đời của Vương tộc, là lực lượng tinh thần để quy tụ lòng dân trăm họ dưới một ngọn cờ. Tôn miếu hưng hay phế, mồ mả tổ tiên an toàn hay bị đào bới, thì vương triều vinh hay nhục, còn uy linh ngự trị trên xã tắc hay mất thiêng với bàng dân thiên hạ.Theo truyền thống, với tâm thức “lá rụng về cội” , dường như triều đại nào cũng chọn nơi phát tích để đặt tôn miếu.
Chúng ta sẽ khảo sát từ tổng quát đến chi tiết vùng đất thiêng này. Đầu tiên xem bản đồ tỉnh Thái Bình, thứ đến huyện Hưng Hà và cuối cùng là khu mộ Tổ nhà Trần.
Huyện Hưng Hà là một huyện đồng bằng, nằm ở rìa phía Tây Bắc của tỉnh Thái Bình, diện tích tự nhiên là 200,42 km². Hưng Hà tiếp giáp với các huyện Đông Hưng (phía đông nam), Vũ Thư (phía nam), Quỳnh Phụ (phía đông bắc) và hai tỉnh Hưng Yên (các huyện Tiên Lữ, Phù Cừ) ở phía tây bắc, Hà Nam (huyện Lý Nhân) ở phía tây tây nam. Hưng Hà có ba mặt giáp sông Hồng (phía tây) cùng hai phân lưu của nó là sông Luộc (phía bắc) và sông Trà Lý (phía nam). Xã Tân Lễ là cực Tây của cả huyện lẫn tỉnh Thái Bình, nằm tại ngã ba sông giữa sông Hồng và sông Luộc. Cực Nam của huyện là xã Hồng Minh, nằm tại ngã ba sông Hồng và Trà Lý (tên cổ là cửa Tuần Vườn). Cực Đông là xã Bắc Sơn, nằm tại ngã ba ranh giới với hai huyện Quỳnh Phụ và Đông Hưng. Sông Tiên Hưng lấy nước từ sông Luộc chảy qua giữa huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài ra huyện có một mạng lưới các con sông nhỏ, kênh rạch nhỏ, nối thông với các sông Hồng, Luộc, Trà Lý.
Các tài liệu địa chí, văn bia, thần sắc, thần phả xưa còn lưu được trên địa bàn Thái Bình hiện nay vẫn hiển hiện rõ dấu ấn oanh liệt một thời của Vương triều Trần trên hàng chục, hàng trăm năm nơi làng quê Thái Bình.
I. TRUYỀN THUYẾT VỀ MỘ TỔ NHÀ TRẦN Ở THÁI ĐƯỜNG
Ông tổ họ Trần (Trần Kinh) đến ở hương Tức Mặc (Nam Định ngày nay) rất thạo sông nước, sống bằng nghề chài lưới lênh đênh trên sông Nhị Hà, chỗ nào cũng là nhà, lấy người con gái ở hương ấy sinh ra Trần Hấp. Vào thời Lý Thần Tông (1128 – 1138), có một thầy địa lí đi xem tướng đất, thấy ở Hương Tinh Cương xã Thái Đường huyện Ngự Thiên phủ Long Hưng có một Gò Hỏa Tinh, thầy cười mà nói rằng: ở nơi bằng phẳng lại nổi lên một gò lớn, hẳn không phải là một hoang địa.
Thầy vào làng bên nghỉ trọ trong một gia đình, biết là thầy là người giỏi xem đất gia đình ngỏ ý nhờ thầy giúp đỡ tìm nơi đặt mộ. Xong việc gia đình ấy đem lòng bội bạc trói thầy địa lí ném xuống sông. May thay gặp lúc thủy triều xuống và lúc đó Trần Hấp đánh cá gần đó thấy người kêu cứu, liền đến vớt đem lên thuyền và hỏi duyên cớ. Cảm ơn sự chăm lo chu đáo của Trần Hấp thầy địa lí thưa rằng: “Tôi đội ơn người đã cứu tôi thoát nạn xin tìm nơi cát địa để báo ơn ”.
Theo sự chỉ dẫn của thầy, giờ lành ngày Tân Dậu, tháng Đinh Tỵ năm Quý Sửu, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc (Nam Định) về đặt tại gò Hỏa Tinh. Mộ đặt ở hướng Càn (Bắc) nhìn ra ngã ba sông lớn, tục gọi là Cửa Vàng. Thế đất đặt mộ cha Trần Hấp theo thầy địa lí là : “Phấn đại đương giao chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ đắc thiên hạ” (Nghĩa là phấn son cùng chiếu rọi, trước mặt nở hoa sen, sau này có người do nhan sắc mà lấy được thiên hạ).
Trải qua 28 năm trước khi sinh Trần Lý, Trần Nghị, hẳn Trần Hấp đã gắn bó với vùng đất Thái Đường. Khi Trần Lý trưởng thành đã tiến về phía Bắc và định cư ở làng Hải ấp (nay là xã Canh Tân) cách Tiến Đức 3km. Vào thời Lý Cao Tông (1176 – 1210) Hải ấp là quê hương tướng quân Đàn Phụng Thị, một danh nhân triều Lý. Con gái của Đàm tướng quân trở thành hoàng hậu của vua Lý Cao Tông. Bà hoàng hậu họ Đàm đã sinh ra Thái Tử Sảm.
Lúc ấy họ Trần ở vùng Hải ấp (Hưng Hà) là quê ngoại của Thái Tử Sảm, nhờ có nghề chài lưới mà giàu lên, có thế lực, quy tụ được lòng dân. Trần Lý sinh được 4 người con (2 trai, 2 gái). Một trong hai người con ấy là Trần Thị Dung, sau này kết tóc se duyên với Thái tử Sảm của vương triều Lý. Thiên tình sử đó diễn ra trong bối cảnh quốc gia có nhiều biến loạn. Kết quả của cuộc tình mặn mà ấy là hai công chúa Thuận Thiên và Chiêu Thánh ra đời, để rồi sau này Chiêu Thánh công chúa (Lý Chiêu Hoàng) trở thành hoàng hậu đầu tiên của vua Trần, đó là Trần Cảnh.
Như vậy nhà Trần ở Tức Mặc chỉ có một đời, từ đời Trần Hấp đã di mộ tổ sang Thái Đường (năm Quý Sửu 1133), thì Tức Mặc chỉ còn là quê ngoại. Tính đến Trần Cảnh thì nhà Trần ở đất Long Hưng, trước khi dấy nghiệp có tới 4 đời vua (khoảng 70 năm): Trần Hấp sinh Trần Lý, Trần Lý sinh Thừa, Thừa sinh Cảnh là vị vua khai sáng triều Trần.
Vì vậy có thể nói rằng: Thái Đường Phủ Lộ Long Hưng (Tiến Đức ngày nay) là nơi phát tích nhà Trần, nơi sinh tồn phát triển và dựng nghiệp của một triều đại có nhiều công lao xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
PHẢ HỆ NHÀ TRẦN:
Nhìn gia phả Vương tộc Trần, chúng ta thấy Tổ tiên nhà Trần Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá. Chính vì vậy khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá (Ngư) sang tên chữ Hán với bộ Nhật, bộ Sơn, bộ Mộc. Trong cuốn “Đông A liệt thánh tiểu lục” cho biết Trần Kinh tên thật là Kình (cá kình), Trần Hấp tên thật là Chắm (cá chắm), Trần Lý tên thật là Chép (cá chép), Trần Thừa tên thật là Dưa (cá dưa), Trần Liễu tên thật là Nheo (cá nheo), Trần Cảnh tên thật là Canh (cá lành canh)…
.
Âm Hán Việt |
Hán Nôm-Bộ ngư |
HánNôm-Bộ nhật-Bộ mộc |
Trần Kinh |
陳鯨 (Kình) |
陳晾 |
Trần Hấp |
陳???? (Chắm) |
陳㬛 |
Trần Lý |
陳鯉 (Chép) |
陳梩 |
Trần Thừa |
陳鮽 (Dưa) |
陳???? |
Trần Liễu |
陳鱙 (Nheo) |
陳橈 |
Trần Cảnh |
陳鯁(Canh) |
陳焸 |
II. QUÊ HƯƠNG, ĐẤT PHÁT TÍCH KHỞI NGHIỆP CỦA NHÀ TRẦN
Xưa nay các Vương triều từ thời Lý đều chọn đất phát tích làm nơi đặt tôn miếu như Đình Bảng (Hà Bắc) của nhà Lý, Lam Sơn của nhà Lê. Đến thời Trần, sự lựa chọn nơi đặt tôn miếu cũng nằm trong tư duy chính trị ấy. Như đã nêu trên và căn cứ thực tế đời sống cổ truyền dân tộc, thì quan niệm nơi sống và nơi chết có liên quan hữu cơ với nhau: "Sống ngâm da, chết ngâm xương”. Mộ tổ là tiêu chí quan trọng để có thể tìm kiếm đất phát tích của một dòng họ, một gia đình, vì vậy Thái Đường được nhà Trần chọn làm nơi đặt tôn miếu. Do vị trí của Thái Đường thuận lợi cho giao thông vì thế được nhà Trần chọn là hậu phương của mình. Xét về địa thế quân sự, tôn miếu nhà Trần ở Thái Đường an toàn hơn cả Kinh Đô vì vậy các vùng phụ cận là nơi sơ tán của vương triều khi giặc kéo vào kinh đô. Trong đó có vai trò của người con gái làng Ngừ (Trần Thị Dung) vô cùng to lớn. Cuối thời Trần, trước những cuộc lấn chiếm của người Chiêm Thành, lợi thế quân sự đó không còn nữa, lăng mộ các đời sau chuyển về Yên Sinh – Quảng Ninh.
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Cách đây hơn 700 năm, tại đây, các vị vua khai nghiệp nhà Trần sinh ra và khởi nghiệp. Trong khoảng thời gian 175 năm tồn tại, triều Trần đã lãnh đạo quân dân Đại Việt lập nên những chiến công hiển hách, ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông hung hãn bậc nhất thời đó .
Trong cả ba cuộc kháng chiến đó, sau thành Thăng Long, mảnh đất Long Hưng – Ngự Thiền đều là nơi nhà Trần chọn làm hậu cứ để xuất nhập thần kỳ.
Lịch sử Việt Nam ghi nhận vương triều nhà Trần đã sinh ra các vị vua anh minh tuấn kiệt như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và rất nhiều tướng soái tài ba, nhân vật lịch sử kiệt xuất như Trần Thủ Độ, Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, Trần Hưng Đạo…
Cũng tại đây chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại gắn liền với vương triều Trần như đại lễ bái yết tổ tiên và ăn mừng chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba (17 tháng 3 năm 1288). Chính trong cuộc lễ lớn này, Vua Trần Nhân Tông đọc 2 câu thơ bất hủ:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Đất nước hai phen chồn ngựa đá / Non sông ngàn thuở vững âu vàng).
Mùa hạ 1312 vua Trần Minh Tông đi tuần thú biên giới phía Nam về, cũng làm lễ báo tiệp nơi lăng các tiên đế ở Thái Đường Phủ Long Hưng.
Tháng 11 – 1390 với chiến thắng của Trần Khát Chân tại cửa Hải Thị – Ngự Thiên giết được vua Chiêm là Chế Bồng Nga, Vua Trần Thuận Tông cũng về Long Hưng bái yết để dâng công chiến thắng lên tổ tiên.
Đặc biệt mảnh đất Tam Đường linh thiêng hiện lưu giữ hài cốt của các bậc tổ tiên triều Trần như Thủy tổ Trần Kinh, Thái tổ Trần Hấp, Nguyên tổ Trần Lý, Thái Thượng hoàng Trần Thừa… Khi các vị vua và hoàng hậu băng hà, trên một nửa được an táng tại quê nhà và đều được xây lăng miếu phụng thờ.
Thái Đường Lăng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại các lăng mộ Thọ Lăng, Chiêu Lăng, Dự Lăng, Quy Đức Lăng. Trong 4 vị hoàng hậu thì 2 vị được ghi rõ là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng hậu (vợ vua Trần Nhân Tông), Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu (em gái Khâm Từ). Hai vị còn lại khả năng là Thuận Thiên Hoàng Thái Hậu (vợ vua Trần Thái Tông) và Nguyên Thánh Thiện Bảo hoàng thái hậu (vua Trần Thánh Tông).
IV. KHU LĂNG MỘ CÁC VUA TRẦN Ở TIẾN ĐỨC – HƯNG HÀ
Các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh… kế thừa và phát huy kiến trúc đình làng.
Riêng toà hậu cung Đền Trần có kết cấu chữ đinh, gồm hai toà tám gian, trên diện tích 359 m2, tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động.
+, Tòa Hậu Cung
- Chính cung thờ:
1, Linh vị cụ Trần Kinh (Truy tôn Mục tổ Hoàng đế)
2, Linh vị cụ Trần Hấp (Truy tôn Linh tổ Hoàng đế)
3, Linh vị Nguyên Tổ Trần Lý (Truy tôn Nguyên tổ Hoàng đế)
4, Thánh Tượng Thái Tổ Trần Thừa (Truy tôn Thái tổ Hoàng đế). Ông là con trưởng của Trần Lý. Tháng 10 năm Bính Tuất (1226) ông chính thức vào ngôi Thượng Hoàng để củng cố Vương Triều, xây dựng đất nước. Thượng Hoàng băng ở cung Phụ Thiên năm Giáp Ngọ thứ 3 (1234) tháng Giêng ngày 18. Mộ táng tại Thọ Lăng Thái Đường. 12 năm sau khi ông mất, ông được truy tôn là Thái Tổ.
- Bên phải thờ Thánh Thượng Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ. Ông là một nhân vật kiệt xuất đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữu nước thời Trần. Ông qua đời vào năm Giáp Tý (1264). Hiện có đình thời và lăng mộ tại xã Liên Hiệp, Hưng Hà.
- Bên trái thờ Thánh Thượng Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Sinh thời bà là người con gái tài sắc vẹn toàn, bà đã dàn xếp mọi bất bình nội tộc để củng cố niềm tin và đoàn kết chống thù trong giặc ngoài, xây dựng vương triều phát triển. Bà mất năm 1259, hiện có đền thờ và lăng mộ tại xã Liên Hiệp, Hưng Hà.Chính giữa là ban thờ Thánh tượng vua Trần Thái Tông (Miếu hiệu của Trần Cảnh 1218 – 1277). Ông là đời vua đầu tiên của triều Trần, là con trưởng của Trần Thừa, được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi năm Ất Dậu (1225), năm Mậu Tý (1258) nhường ngôi làm Thái Thượng Hoàng. Đến năm 1277 ngày 1 tháng 4 (AL), ông băng hà thọ 60 tuổi mộ táng ở Chiêu Lăng – Thái Đường.
- Bên trái thờ Thánh tượng vua Trần Thánh Tông (Miếu hiệu của Trần Hoảng 1240 – 1296). Ông là đời vua thứ hai Triều Trần, là con trưởng Vua Thái Tông. Năm 1258 được vua cha nhường ngôi làm vua 21 năm. Năm Giáp Thân (1284) nhường ngôi cho Nhân Tông làm Thượng Hoàng, băng hà vào ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290) thọ 51 tuổi. Mộ táng ở Dụ Lăng – Thái Đường.
– Bên phải thờ Thánh tượng vua Trần Nhân Tông (Miếu hiệu của Trần Khâm 1258 – 1308). Ông là đời vua thứ ba của triều Trần, là con trưởng vua Thánh Tông. Năm 1293 (Kỷ Tỵ) nhường ngôi cho con là Anh Tông làm Thượng Hoàng và xuất gia.
Năm Mậu Thân (1308) ngày 3 tháng 11 (ÂL), ông băng hà ở Am Ngọa Vân Yên Tử (Đông Triều Quảng Ninh) thọ 51 tuổi. Thi hài được hỏa táng theo phép nhà Phật.
+, Tòa Bái Đường:
Thờ Ngai và bài vị của hội đồng các quan, tả thờ Văn quan, Hữu thờ Võ tướng triều Trần.
1. Cổng Đền |
4. Tòa Bái Đường |
7. Tòa Đệ Nghị |
2. Giếng Ngọc |
5. Sân Chầu |
8. Tòa Hậu Cung |
3. Sân Đền |
6. Hai Tòa Giả Vũ |
|
SƠ ĐỒ TOÀN CẢNH ĐỀN TRẦN (CŨ)
Ngoài ra trong quần thể đền thờ các vua Trần còn có Đền thánh thờ Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, đền thờ Mẫu…Hiện nay quần thể di tích đang tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện với tổng diện tích 22 ha.
V. MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHẬT HOÀNG-TÔN MIẾU-XÃ TẮC
Viết về Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm , Nguyễn Lang tác giả “ Việt Nam Phật giáo Sử luận” (T279) đã nhận xét: “ Đạo Phật trở thành yếu tố tâm lý liên kết toàn dân lại trong mục đích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân Tông và Anh Tông là những nhà chính trị giỏi, nhưng đồng thời cũng là những Phật tử thật sự. Nhà phê bình lịch sử có thể nói họ lợi dụng Đạo Phật cho chính trị, nhưng nhà phê bình văn hóa cũng có thể nói họ là những Phật tử sùng đạo”.
Việc Thái thượng hoàng Trân Nhân Tông lên Yên Tử tu hành là sự kiện làm náo động trong triều đình. Bách quan và hoàng tộc không hiểu được động cơ vừa cao thượng vừa bí ẩn đã thúc đẩy thượng hoàng đi tu, vả lại Ngài cũng không thể nói với ai điều đó mà chỉ : “ Bách niên tâm ngữ tâm” ( Trăm năm lòng nhũ lòng) như lời trong bài thơ Đăng Bảo Đài Sơn. Đương thời có lẽ chỉ có Lý Đạo Tái – Huyền Quang, vốn là trạng nguyên đã làm quan trong triều hàng chục năm, tha thiết xin vua Anh Tông cho từ quan để đi tu học đạo, theo hầu Trúc Lâm Đầu Đà là hiểu được niềm tâm sự thâm thúy đó.
Tư tưởng thiền phái Trúc Lâm mà hiện thân là Đệ nhất tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông có thể khái quát thành hai nội dung chủ yếu sau đây:
- Tư tưởng Tâm là Phật. Tâm ngộ đạo là chân Phật, mọi con người đều có tính Phật, đều có chủng tử giác ngộ, là cái mầm để trở thành Phật, tạo cho mỗi người có ý thức tự tu dưỡng, tự phấn đấu lánh ác hướng thiện, làm chủ cuộc sống, làm chủ xã hội, biến cuộc đời trở thành cõi Niết bàn không phải ở kiếp sau xa xôi nào khác, mà ngay trong cuộc sống hiện tại.
- Tinh thần nhập thế, không trốn tránh thế tục, nhưng vượt trên thế tục, không tham Tư tưởng sân si, suy nghĩ hành động cao đẹp không màng danh lợi “ coi ngai vàng như chiếc giầy rách”, “ Cư trần lạc đạo”, hết lòng vì dân, vì vương triều nhà Trần và xã tắc.
Vì vậy dù xuất gia, trở thành vị cao tăng Đệ Nhất Tổ Trúc Lâm nhưng Điều Ngự giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn luôn nhận rõ thiên chức Thái thượng hoàng của mình, vẫn quán xuyến can dự và giải quyết công việc chăn dân, trị nước khi cần thiết. hệ toàn dân về một mối, cả vương quyền lẫn thần quyền.
V. KẾT LUẬN:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, thời Trần được xem là một giai đoạn phát triển huy hoàng của nền văn minh Đại Việt, với những đỉnh cao chói lọi cả về mặt văn trị lẫn võ công, vương triều Trần cũng là một triều đại tiêu biểu cho tinh thần hòa hợp, đoàn kết dân tộc, tinh thần quyết chiến chống giặc ngoại xâm, dành những thắng lợi vĩ đại.
Thái Bình, miền đất địa linh nhân kiệt, là quê hương của Vương triều Trần, quê hương của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Trần, nơi gắn liền với biết bao di tích lịch sử, văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam hồi thế kỷ XIII. Đất Ngự Thiên-Long Hưng xưa, nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình cũng chính là đất phát tích khởi nghiệp của Vương triều Trần. Trên vùng đất này hiện còn lưu giữ rất nhiều di tích, tư liệu lịch sử quý giá, thể hiện dấu ấn oanh liệt một thời của một triều đại huy hoàng.
0 Comments
Add new comment