HUỲNH MAI PHẬT MÔN LIÊN TẬP
Tham luận
Hội thảo Hán Nôm 22-08-2025
Xin chào quý vị. Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau khám phá một tác phẩm Hán Nôm Phật giáo khá là độc đáo từ miền Nam Việt Nam Huỳnh Mai Phật môn liên tập. Nguồn tư liệu chính của chúng ta là phần giới thiệu về tập bản Thảo Gốc, một công trình rất tâm huyết của cố Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
Đây là một tập hợp các bài viết mà Hòa thượng Thích Đạt Hảo, sinh năm 1916, mất năm 1996, ngài đã sưu tầm này rồi diễn nôm, tức là chuyển thể sang chữ nôm cho người Việt mình dễ đọc hơn. Quá trình này kéo dài trong khoảng 30 năm từ 1960 đến 1990, một khoảng thời gian khá dài.
Điều cũng thú vị là công trình này lại được thực hiện tại chùa Pháp Quang ở quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây từng có vai trò nhất định trong hoạt động cách mạng giai đoạn 1963-1975.
Bồi cảnh lịch sử đó quả thật đáng chú ý. Bản thảo gốc theo tôi hiểu là một tập bút ký viết tay, dày gần 200 trang A4. Đặc biệt là viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
Đối đến năm 1996 thì Hòa thượng Đạt Hảo đã tặng lại bản thảo này cho Hòa thượng Thích Nhật Quang, trụ trì Thiền Viện Thường Chiếu hiện nay. Một sự trao truyền quý giá.
Tập bản thảo này có ba phần chính. Văn xuôi tức là tản văn, rồi thơ và một phần rất đặc sắc là câu đối.
Vậy thì chúng ta hãy cùng xem xét những điểm nổi bật nhất. Bắt đầu với phần văn xuôi, phần này có vẻ tập trung nhiều vào giáo huấn Phật pháp.
15 bài văn xuôi ở đây thể hiện rất rõ tinh thần đó. Mang đậm chất thiền. Ngôn ngữ thì chặt chẽ mà lại giàu hình ảnh biểu tượng. Nguồn gốc cũng rất đa dạng. Có bài từ Đại Tạng Kinh, có bài của các vị cao tăng khác rồi có bài do chính Hòa thượng Đạt Hảo diễn nôm hoặc là tự mình sáng tác.
Bài Xem kinh biết cảnh tỉnh, hình ảnh nước lắng thì ngọc hiện thật sự sâu sắc. Phải chăng là cần giữ tâm thanh tịnh khi đọc kinh thì trí tuệ mới hiển lộ?
Đó chính là cốt lõi của việc thực hành thân khẩu ý phải thanh tịnh. Có một bài nôm khác cũng rất hay, rất gần gũi là Thân mạng vô thường. Tác giả dùng hình ảnh rất đời thường: Tia chớp lóe lên, lửa đá tóe ra, hoa rụng nước chảy, ... để nói về cái sự mong manh vô thường của kiếp người. Chính cái cách diễn đạt này làm giáo lý trở nên dễ cảm nhận hơn nhiều.
Cách dùng hình ảnh đời thường này làm tôi nhớ đến bài Bài ca Luống công chàng, của Hám Sơn đại sư, được Hòa thượng Đạt Hảo ghi lại và giảng Nôm. bài ca như lời cảnh tỉnh rằng tu hành cần thực chất phải trừ đi vọng niệm chứ không chỉ là hình thức bên ngoài kiểu như núi sâu ngồi tịnh.
Về thơ thì có khoảng 40 bài theo thể đường luật chủ yếu là sáng tác của Hòa thượng Đạt Hảo và các bạn đạo cùng xướng họa, nội dung khá là dung hòa, có cả Phật pháp, có tình yêu quê hương đất nước và cả tinh thần nhập thế nữa.
Như bài thơ về Hòa thượng Bích Liên, câu Chẳng chọn cung tiên trồng quế thắm/ lại về cõi tục nở sen hoa. Dùng hình ảnh ẩn dụ rất hay. Nó diễn tả rất tinh tế cái lý tưởng Bồ Tát đạo, tức là không chọn nơi an nhàn mà vào đời để độ sinh.
Còn có một bài thơ về lịch sử Việt Nam nữa, khá đặc biệt. Theo tư liệu thì bài thư thể hiện tinh thần dân tộc, ví dụ qua câu Nam bang tuy tiểu thị anh hùng rồi ý chi đấu tranh, nhất định đấu tranh bất phục tùng. Bài thơ cũng có ghi nhận vai trò của Hồ Chủ tịch trong ngoại giao, câu Hội đảng quốc tế đắc thành công.
Việc một vị Hòa thượng đưa các yếu tố lịch sử chính trị đương thời vào thơ Phật giáo như vậy, thực sự cho thấy sự gắn bó mật thiết giữa đạo và đời trong giai đoạn đó. Nó phản ánh bối cảnh thời đại. Ngay cả các bài thơ về chùa Vĩnh Nghiêm (không rõ tác giả) cũng thế. Hình ảnh đầm hoang chối dậy ngọc lâu thành vừa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của đạo pháp.
Nhưng có lẽ điểm nhấn đặc sắc nhất của tác phẩm nơi mà kiến thức Phật học kết tinh rõ rệt nhất là phần câu đối cực kỳ ấn tượng. Hơn 300 cặp đối, đây thực sự là một kho tàng Phật học Hán Nôm. Hơn 300 cặp mà lại còn được ứng dụng thực tế có những câu được treo ở cổng Tam quan, Chánh điện các chùa nữa. Điều đó cho thấy giá trị cả về nội dung lẫn thẩm mỹ. Chủ đề thì rất phong phú: Tam bảo, Tổ quốc, Thầy tổ, Gia đình, Thí chủ… đủ cả.
Ví dụ cặp đối về Tam Bảo: Bối diệp lưu Phương, lợi cập đại thiên chi giới/Đàm hoa hiện thụ, quang diêu sát hải chi trung.
Bối diệp là lá bối để viết kinh ngày xưa, còn đàm hoa là hoa ưu đàm. Lá bối thơm xa, lợi khắp ngàn cõi, hoa đàm điềm lành, sáng soi biển chùa, ý nghĩa rất hay mà cấu trúc đối lại chặt chẽ, hài hòa.
Còn về thiền tông thì sao?
Có cặp Giác mãn chứng kim tiên, pháp diễn tam thừa, hạo hạo vô biên hoành nghĩa/ Viên minh chân tính. khí quang hàm vạn tượng như bất động bảo sơn vương. Nó cô đọng nhiều tầng nghĩa về giác ngộ, về trí tuệ viên mãn, vững chắc như núi báu vậy, thực sự là uyên thâm.
Nhìn chung thì Huỳnh Mai Phật môn liên tập dù hoàn thành muộn hơn vào cuối thế kỷ 20 nhưng nó vẫn mang đậm tinh thần của Phật giáo Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Tinh thần đó là gì?
Đó là nỗ lực dùng văn chương Hán Nôm, một sự kết hợp giữa ngôn ngữ bác học và chữ viết bản địa để hoàng dương Phật pháp, để kết nối đạo với đời. Có thể nói đây là minh chứng cho sự hòa quyện giữa Tuệ Giác Phật giáo và văn hóa dân tộc, một di sản quý giá cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu sau này.
Tóm lại thì Huỳnh Mai Phật môn liên tập thực sự là một tác phẩm đa diện. Nơi đây có sự gặp gỡ của giáo lý Phật-đà sâu sắc với văn hóa bản địa đương thời. Nghệ thuật Văn chương Hán Nôm rất tinh tế và cả những dấu ấn không thể phai mở của lịch sử và tinh thần dân tộc.
Vậy khi chúng ta tìm hiểu sâu hơn những tác phẩm như thế này, liệu có mở ra thêm những góc nhìn mới mẻ nào về sự phong phú, năng động và cả khả năng hội nhập rất đặc biệt của Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ hay không? Đó có lẽ là một câu hỏi mở khá thú vị để chúng ta cùng suy ngẫm thêm.
0 Comments
Add new comment