HOÀI BÃO CỦA ĐỨC PHẬT HOÀNG

Posted by Thông Thiền on Thu, 16/11/2023 52:13

TRAN N TÔNG

HOÀI BÃO CỦA ĐỨC PHẬT HOÀNG

Bài Viết Hội Thảo Khoa Học Quốc Tế

 “ Trần Nhân Tông Và Phật Giáo Trúc Lâm – Đặc Sắc Tư Tưởng, Văn Hóa”

Danh sơn Yên Tử có một bề dày văn hóa đáng kính. Trong các nguồn văn hóa phi vật thể của triều Trần có ba mươi (30) bài thơ của vua Trần Nhân Tông, và bên cạnh dòng thơ thiền của vị vua Phật như: Xuân Cảnh, Xuân Vãn, Sơn Phòng Mạn Hứng 1 và 2, Đại Lãm Thần Quang Tự, Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, Cư Trần Lạc Đạo Phú, lại có một bài thơ thiền mà thoạt nhìn ai cũng ngỡ chỉ là một bài thơ tả cảnh bình thường, nhưng nếu khảo sát bằng tâm tư sâu lắng mới thấy tư tưởng văn hóa Việt Nam đặc sắc của đức Phật hoàng bàng bạc trong ấy.


Đó là bài Đăng Bảo Đài sơn (lên núi Bảo Đài). Nguyên văn chữ Hán như sau:

   登寶臺山

地僻臺逾古

時來春未深

雲山相遠近

花徑半晴陰

萬事水流水

百年心語心

倚欄橫玉笛

明月滿胸襟

ÂM:

Đăng Bảo Đài Sơn

Địa tịch đài du cổ

Thời lai xuân vị thâm

Vân sơn tương viễn cận

Hoa kính bán tình âm

Vạn sự thủy lưu thủy

Bách niên tâm ngữ tâm

Y lan hoành ngọc địch

Minh nguyệt mãn hung khâm.

 Dịch:

Lên núi Bảo Đài

Cảnh vắng đài thêm cổ

Xuân sang màu chửa hồng

Xa gần mây núi hợp

Rợp bóng ngõ hoa trồng

Vạn sự nước xuôi nước

Trăm năm lòng ngỏ lòng

Tựa lan nâng sáo thổi

Trăng sáng đầy cõi tâm.

 

Nguyễn Lang dịch

Trước khi phân tích bài thơ, chúng tôi xin được nói qua một chút về hai lãnh vực liên quan đến đề tài này. Đó là khái niệm về thơ thiền và những loại hình ngôn ngữ trong kinh điển Phật giáo:

I. Khái niệm về thơ thiền.     

     Trong Từ điển Nho Phật Đạo cho rằng, thơ Thiền lúc đầu là những bài kệ. Đây là thể văn Phật giáo, còn gọi là “tụng”, nói chung là do bốn câu tổ thành. Có các loại, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 32 chữ. Là văn vần, loại thể tài giống như thơ. Nhưng từ đời Đường, kệ được “thơ hoá”. Nhà thơ nói bằng hình ảnh, kêu gọi chứ không dùng khái niệm khô khan. Do vậy, thơ kệ làm thành một bộ phận của thơ Thiền, tức dòng thơ thể hiện cảm xúc mang ý vị Thiền học nhưng vẫn đậm đà chất thơ. Kệ thường được viết trong những hoàn cảnh: lúc nhà thơ sắp viên tịch, khi ngộ đạo, khi trả lời đệ tử về giáo lý đạo Phật…

Thơ thiền, cõi thơ bát ngát trầm mặc, chính là sự hòa điệu kì diệu giữa thiền và thơ. Sự kết hợp này đem đến vẻ đẹp hài mãn của nghệ thuật là điều tất nhiên, vì có những nguyên nhân rõ rệt:

1. Thiền tông là một tông phái lớn và đặc sắc của Phật giáo; tư tưởng của thiền có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với triết học Đông Phương; thơ là một thể loại văn chương rất phổ biến, biểu đạt hình thức tư tưởng tình cảm, đầy dẫy trong hệ thống văn hóa Việt Nam.

2. Cái ảo diệu của thơ và sự thâm áo của thiền là ý tại ngôn ngoại, đó là đặc điểm chung để thơ và thiền kết hợp, hòa quyện nhau một cách hồn nhiên và linh hoạt.

Sự kết hợp thiền và thơ, được biểu hiện qua hai hình thức: đem thiền vào thơ, mượn thơ chỉ thiền. Đem thiền vào thơ là đem nội dung thiền dẫn nhập vào trong thơ, nhằm đề cao ý cảnh của thơ. Những bài thơ thiền loại này phần nhiều là của giới quan lại trí thức. Mượn thơ chỉ thiền là mượn hình thức của thơ cốt làm sáng tỏ chân lí siêu việt của Thiền tông, hoặc chỉ điểm cho người tham học, hoặc nói lên sự khai ngộ của chính mình, khơi mở nguồn mạch tâm linh, loại thơ này phần lớn là do các bậc đại sư Thiền tông sáng tác. Bài thơ này là một tiểu phẩm tổng hòa hai hình thức trên, vì tác giả của nó vừa là một vị vua anh minh vừa là một thiền sư lỗi lạc.

 Nếu thơ là tinh hoa được kết tụ của tâm hồn con người muôn thuở thì thơ cũng như thiền đều rất khó hiểu đối với người không cùng một kinh nghiệm cảm xúc với tác giả. Nhà thơ chỉ “truyền cảm” mà không bao giờ giải thích, cũng tương tự như lối “chỉ vật truyền tâm” của nhà thiền. Dưới ngòi bút sáng tạo của thi nhân, ngôn ngữ mang sức sống dạt dào, mới mẻ; Cũng như với tâm hồn khoáng đạt của thiền sư, hoa nở, gió thổi, chim hót, mây bay… đều biểu lộ một thế giới tánh cảnh nhiệm mầu.

Thiền tông bắt đầu từ Lục Tổ mới dùng thi kệ để biểu hiện Thiền. Đương nhiên cũng có hoàn cảnh tác động đến, vì vào đời Đường Thiền tông cực thịnh và cũng là thời đại hoàng kim của thi ca Trung Quốc. Ở Việt Nam thi kệ thiền được thấy bắt đầu xuất hiện bởi thiền sư Khuông Việt vào đời Đinh trở về sau. Khi ấy các thiền sư thường mượn văn chương để tỏ bày cảnh giới ngộ của mình, đây là bối cảnh lớn của sự kết hợp thơ và thiền.

Trong Dã Hồng Thi, Hoàng Tử Vân viết:

“Thơ có thiền lý, không thể nói toạc ra, những gì gởi gắm trong đó, người học hỏi phải tự lãnh ngộ, một khi ngọn bút thành lời nếu không xác định thì phủ định, thơ có thể chú thích chứ không thể giải thích là ở chỗ nầy”.

II. Những loại hình ngôn ngữ trong kinh điển Phật giáo:

Có 5 loại:

1. Ngôn ngữ ẩn dụ và thí dụ

2. Ngôn ngữ biểu tượng

3. Ngôn ngữ ly niệm-thực tại

4. Ngôn ngữ tư duy thiền định

5. Ngôn ngữ siêu hình

Ở đây chỉ trình bày tóm tắt 2 loại: 1. Ngôn ngữ ẩn dụ, 2. Ngôn ngữ biểu tượng

1- Ngôn ngữ ẩn dụ:

Đây là loại hình ngôn ngữ liên tưởng, so sánh ngầm. Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ này một cách thiện xảo để nói lên sự thật của khổ đau và an lạc, của hư ngụy và chân thật trong đời sống tâm thức của con người, cũng như dùng nó để ngầm giới thiệu một cảnh giới giải thoát khỏi mọi lụy phiền trần thế. Có thể nói, hầu hết các thời thuyết giáo của Phật đều để lại rất nhiều những ẩn dụ cụ thể, giúp người đời dễ hiểu, dễ nắm bắt và dễ suy niệm. Trong kho tàng văn học Phật giáo, từ kinh tạng Nikàya, Agama cho đến các bộ kinh thuộc Đại thừa đều mang theo những hình ảnh ẩn dụ, thí dụ đặc sắc. Thí dụ như Xuân vị thâm dụ cho sức sống mạnh mẽ mà trong nhà thiền gọi là Xuân miên viễn. Tình (trời nắng), âm (bóng râm) chỉ cho sáng và tối đối đãi thuộc Ngoại cảnh vô tình đối, viễn (xa), cận (gần) chi cho dài ngắn đối đãi thuộc Tự tánh khởi dụng đối trong kinh Pháp Bảo Đàn.

2. Ngôn ngữ biểu tượng:

Ngôn ngữ biểu tượng là một trong năm loại hình ngôn ngữ thường thấy xuất hiện trong ngôn ngữ kinh điển Phật giáo Đại thừa, và nếu không hiểu được ý nghĩa biểu tượng thì không làm sao đi vào thế giới đầy dẫy những hình ảnh biểu tượng trong ngôn ngữ kinh tạng Đại thừa. Ngôn ngữ biểu tượng nhằm nói lên một vấn đề nào đó, như dùng hình ảnh Hoa sen tượng trưng cho Phật và Phật tính ở mỗi con người.

Như chúng ta biết, hoa sen là một loài hoa đặc biệt. Nó chỉ mọc lên trong đầm lầy. Mặc dầu vậy, hoa và hương của nó luôn tinh khiết, không cấu nhiễm bởi bùn nhơ, nước đục:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Điều này cho thấy ý nghĩa biểu tượng của hoa sen là một sự toàn thiện ngay giữa lòng cuộc đời ô trược. Và cho đến nay, hoa sen đã đi vào truyền thống Phật giáo bởi hình ảnh biểu tượng của nó. Kinh Pháp Hoa (Diệu pháp liên hoa) là bộ kinh vốn được xem là Pháp vương - tức vua của các kinh trong hệ thống kinh tạng Đại thừa. Biểu tượng của kinh là HOA SEN.

Vì lẽ đó, ngôn ngữ biểu tượng là ngôn ngữ mang đầy màu sắc, hình ảnh. Chúng ta đều biết rằng, tâm thức vốn là cảnh giới không màu sắc, không hình thù, không có ngã thể. Nó là vô tướng. Dùng cái có hình tướng để nói về cái không hình tướng chỉ là một lối diễn đạt, nó được xem như "con thuyền đưa người sang sông". Vả lại, một sự thể nếu có hình tướng tất phải có sinh diệt. Và những gì được giới hạn bởi hai đầu sinh diệt đều thuộc về pháp hữu vi, vô thường. Đó không phải cảnh giới thanh tịnh, không, vô tướng và giải thoát. Nhưng nếu không dùng hình tướng để diễn bày vô tướng, thì cảnh giới vô tướng đó sẽ không được biết đến. Như thế, cuộc đối thoại tâm truyền giữa cảnh giới thánh trí của Phật và phàm tục của chúng sinh sẽ diễn ra như thế nào đây? Và nữa, cảnh giới vô tướng giải thoát dầu là không hình tướng, không sắc tướng, nhưng không vì vậy mà nó không hiện hữu. Đây là lý do tại sao, Phật dùng đến ngôn ngữ biểu tượng như là một phương tiện tối thượng để truyền đạt và dẫn dắt chúng sinh đi vào Niết bàn - một cảnh giới thanh tịnh, giải thoát ngay nơi mặt đất gổ ghề, tục lụy của trần thế này. Các thiền sư cũng hay dùng ngôn ngữ biểu tượng trong ngữ lục và thi ca của các Ngài. Ta thấy tần số xuất hiện của chúng khá nhiều, chẳng hạn như trong bài thơ này. 

Có một điều vô cùng quan trọng cần phải biết đối với ngôn ngữ biểu tượng, đó là cái biểu tượng là một, nhưng cái được biểu tượng luôn luôn khác một, nghĩa là nhiều hơn một. Và do đó, một hình ảnh biểu tượng có thể được hiểu qua nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Thí dụ, sông có thể hiểu là sông ái, dòng chảy vô thường, dòng tâm thức, núi có thể hiểu là núi sinh lão bệnh tử hoặc núi tự tâm như cô phong, biệt phong, bảo đài sơn v.v...

Như vậy, phải chăng bài thơ này đã chuyển tải được yếu chỉ Thiền tông và hoài bão của Phật hoàng Trần Nhân Tông xuyên qua ngôn ngữ ẩn dụ và biểu tượng mà kinh điển Phật giáo Thiền tông thường sử dụng. Chúng ta sẽ tuần tự khảo sát từ tựa đề đến cuối bài.

III. Thử nhìn bài thơ theo góc độ thiền học:

 Vì thế hôm nay tôi mạo muội chú thích một phen về bài thơ của sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông.

Theo các nhà sử học Việt Nam thì núi Bảo Đài có ba nơi: 1. Núi Bảo Đài là một ngọn trong dãy núi Yên Tử; 2. Núi Bảo Đài thuộc Bảo Lộc ở Châu Ai; 3. Núi Bảo Đài ở xã Đông Mạc, huyện Vọng Danh. Ở đây, chúng ta có thể hiểu núi Bảo Đài là một ngọn trong dãy núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh hiện nay, tức ngọn núi có Am Ngọa Vân, cách chùa Hoa Yên gần 34 km đường bộ. Thế là về mặt không gian chúng ta đã xác định được, nhưng về mặt thời gian, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác bài thơ trên vào lúc nào? Đó là điều chúng ta cần tìm hiểu, và có thế thì chúng ta mới thấu rõ những gì ngài muốn nói ở bốn câu thơ sau cùng của bài thơ này.

Theo giáo sư Nguyễn Duy Hinh thì cuộc đời của vua Trần Nhân Tông có thể chia làm 7 giai đoạn : 1. Làm Thái tử; 2. Làm vua có Thái thượng hoàng; 3. Làm vua không có Thái thượng hoàng; 4. Làm Thái thượng hoàng; 5. Đi tu khổ hạnh; 6. Đi thuyết pháp; 7. Những ngày cuối cùng. Như vậy, Ngài đã làm bài thơ “Đăng Bảo Đài sơn” trong giai đoạn nào? Ở đây, dưới góc nhìn của thiền học, chúng tôi cho rằng bài thơ này được trước tác vào giai đoạn tu khổ hạnh ở Ngọa Vân Am.

Ở tầng sâu xa, Đăng Bảo Đài sơn chính là Phản quan tự kỷ bổn phận, chính là câu trả lời của Tuệ Trung cho Trần Nhân Tông khi Ngài hỏi về việc tông chỉ bổn phận. Đây chính là ngôn ngữ ẩn dụ, chư Tổ thường mượn hình ảnh “người leo núi” để dụ cho người tu hành theo pháp môn Thiền tông.

Thật vậy, chúng ta hãy thử phân tích hai chữ Bảo đài:

Trong thuật ngữ của Thiền tông từ điển, Bảo đài  đồng nghĩa với Linh đài, Na nhất bảo, Nhất bảo, Nhất bảo bí tại hình sơn đều chỉ cho chân tâm, Phật tánh, nên Đăng Bảo Đài Sơn nói theo ngôn ngữ Việt Nam là đang lên đường trở về chơn như, tự tánh. Dẫn chứng:  LINH ĐÀI 靈 臺 có nghĩa là

Phật tính thanh tịnh. Chương Nam Nhạc Lại Toản Hoà thượng ca trong CĐTĐL q. 30 ghi:

莫 謾 求 眞 佛

 眞 佛 不 可 見                                                        

妙 性 及 靈 臺

 何 曾 受 熏 鍊

心 是 無 事 心

 面 是 孃 生 面

劫 石 可 移 動

 箇 中 無 改 變

Mạc mạn cầu chân Phật

Chân Phật bất khả kiến

Diệu tính cập linh đài

Hà tằng thọ huân luyện

Tâm thị vô sự tâm

Diện thị nương sinh diện

Kiếp thạch khả di động

Cá trung vô cải biến.

Chớ dối cầu chân Phật

Chân Phật chẳng thấy được

Diệu tính cùng linh đài

Đâu từng chịu đào luyện.

Tâm là tâm vô sự

Mặt là khuôn mặt mẹ

Kiếp thạch có đổi dời

Cái này không thay đổi.

Thật vậy, chúng ta hãy thử phân tích hai câu thơ trong bài:

Địa tịch đài du cổ

Thời lai xuân vị thâm

Cảnh vắng đài thêm cổ

Xuân sang màu chửa hồng

Hai câu này nói lên cảnh vắng vẻ tô điểm thêm cho đài, nếu đài xưa nằm ở chỗ nhộn nhịp sẽ mất đi vẻ cổ kính của nó. Nó cũng mang ý nghĩa nếu ở nơi vắng vẻ thì linh đài (tự tâm) càng dễ được thanh tịnh. Và khi Ngài lên thăm Bảo Đài sơn thì thời tiết không phải là cuối xuân, mà vào khoảng mạnh xuân tức chỉ cho sức sống dồi dào (mùa Xuân miên viễn-tự tâm hay linh đài) đang hiện tiền. Nói theo ngôn ngữ Thiền tông là kiến tánh.

Vân sơn tương viễn cận

Hoa kính bán tình âm

Xa gần mây núi hợp

Rợp bóng ngõ hoa trồng

Nghĩa là nhìn thấy thấp thoáng mây núi chỗ gần, chỗ xa. Con đường hoa dẫn lên núi, nửa bên nắng nửa bên râm. Đó là bốn câu diễn tả hình ảnh đẹp của Bảo Đài sơn và cũng nói lên được tính đối đãi của thế giới hiện tượng: Viễn/cận (xa/gần), bán tình/âm (nửa bên nắng nóng/nửa bên râm mát). Đây há chẳng phải là tông chỉ Ngoại cảnh vô tình đối và Tự tánh khởi dụng đối trong 36 phép đối nhằm phát hiện tự tâm của Lục Tổ Huệ Năng dạy trong Kinh Pháp Bảo Đàn hay cũng là nơi thế lưu bố tưởng mà chẳng sanh trước tưởng. Đây chính là cách nhìn vạn pháp của người tu thiền; thấy tướng các pháp là tương đối, là hư huyễn không thật nên không dính mắc. Thấy được như thế là thấy được bản thể, như trong Chứng Đạo Ca, thiền sư Huyền Giác đã nói: Huyễn hóa không thân tức pháp thân (Thấy được thân không thật, như huyễn, như hóa, là thấy pháp thân). Người kiến tánh là người thấy được tính đối đãi của thế giới hiện tượng mà không bị nó chi phối, nói khác đi là tuy phân biệt mà không phải ý.

 Và nối kết một cách mạch lạc với đoạn sau:

Vạn sự thủy lưu thủy

Bách niên tâm ngữ tâm

Vạn sự nước xuôi nước

Trăm năm lòng ngỏ lòng

Ý tứ của câu Vạn sự thủy lưu thủy là khi nhìn xuống dòng nước hay dòng suối chúng ta sẽ thấy luồng nước có từng đợt chảy qua, đợt sau nối tiếp đợt trước, liên tục không ngừng. Đây là ngôn ngữ biểu tượng: Sự việc ở đời, cứ việc này nối tiếp việc kia liên miên không bao giờ dừng lại một chỗ vì chúng vốn vô thường huyễn hóa. Đó là sự vận hành theo quy luật tự nhiên, là lẽ đương nhiên của cuộc đời, với người căn cơ bén nhạy thì sẽ nhận ra ngay. Và nhờ luôn luôn biết rõ như thế nên tâm hành giả sẽ không vướng mắc vào đâu, đưa đến chỗ chứng nhập bản thể chân như.

Phải có tầm nhìn xuyên thấu cửa ải thiền cơ như trên đây rồi sau mới bách niên tâm ngữ tâm. Câu này có nghĩa là Ngài nguyện đem cả cuộc đời lấy tâm truyền tâm, tức truyền bá thiền tông, nhằm phát huy nội lực nằm trong chính mỗi con người – tâm thanh tịnh là nguồn năng lực rất lớn nếu ta biết khai thác tức biết tu hành. Theo Văn Lâm3 đối với tố chất người Việt Nam thì đây chính là chỗ mạnh nhất, sáng nhất cần được phát huy tối đa, nghĩa là phải được thăng hoa cả về trí tuệ, thể chất và tâm hồn. Sự hưng thịnh và tươi sáng của không ít thời đại đã chứng tỏ điều đó. Và đương nhiên, thời Trần là một tiêu biểu.

Cứ nhìn vào cung cách Trần Nhân Tông và soi vào tư tưởng lớn Trần Nhân Tông, rõ ràng để làm được điều đó – có thể gọi là nghiệp lớn và phúc lớn – thì cốt là ở một nền giáo hóa chuẩn mực và lành mạnh. (Xin nói là nền giáo hóa, chứ không phải chỉ đơn thuần là công đoạn ít năm ngồi trên ghế nhà trường). Nền giáo hóa ấy thấm đẫm suốt cả đời người - từ trong quá trình thai giáo cho đến khi nhắm mắt xuôi tay - cả vua quan và dân chúng, cả giàu nghèo lẫn sang hèn, cả trẻ lẫn già.

Từ nhỏ, được ấn tâm và thụ giáo người thầy lớn là Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung - một cư sĩ tại gia chủ trương hòa gắn đạo và đời làm căn bản cho quá trình nhận thức và tu tâm kiến tánh nhằm tự tại đối với sinh tử. Sau đó, trải nghiệm qua công cuộc trị quốc đầy minh triết và hào hùng, Người không khó khăn gì để khẳng định chân lý giải thoát như thế. 

Và chính Người và những người cùng thời đã nhìn thấy từ trong tinh hoa đạo Phật những giá trị thuận cách cho nền giáo hóa con dân đúng hướng, dựa trên căn bản của nền sống dân tộc – đó là bình dị và kiệm ước, trọng học và trọng tình, biết tôn thờ sự nghiệp dân nước làm trọng.

Y lan hoành ngọc địch

Minh nguyệt mãn hung khâm.

Tựa lan nâng sáo thổi

Trăng sáng đầy cõi tâm

Chính hai câu thơ này đã khiến nhiều người đời sau bàn cãi, vì không rõ ngài muốn nói gì, làm gì. Nếu chúng ta cùng nhất trí thời điểm sáng tác là vào giai đoạn xuất gia tu hành của Ngài và đồng ý rằng “thơ là đỉnh núi giữa bình nguyên ngôn ngữ, là tiếng nói sâu thẳm nhất của con tim” cùng biết rõ về thuật ngữ Thiền tông thì chúng ta mới có thể lý giải được những điều Ngài ký thác trong đoạn cuối bài thơ.

Như đoạn trên đã nói, Sơ tổ Trúc Lâm mang hoài bão hoằng dương Thiền tông, thế nhưng truyền bá bằng cách nào đây? Theo Ngài là “tựa lan can nâng cao ống sáo thổi”. Đây cũng thuộc ngôn ngữ biểu tượng. Ống sáo ở đây chính là ống sáo không lỗ (vô khổng địch) mà trong các trước tác thiền lâm hay dùng như Khương địch thanh thanh tống vãn hà, Thiếu Lâm vô khổng địch, Xuy khứ hoàn hương vô khổng địch. Thuật ngữ vô khổng địch được dùng để diễn tả ý “điều sâu sắc không thể dùng phương tiện, cách thức bình thường để biểu hiện, mà con người phải vươn lên mọi quy cách, mọi sự ràng buộc của nhãn kiến thông thường, tức là thuyết pháp không lệ thuộc vào các ngôn ngữ, lìa mọi tình thức3. Phật hoàng đã thi vị hóa cái đó bằng từ ngọc địch (ống sáo ngọc).

Cho nên Phật giáo Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông đã dầy công gây dựng ở Yên Tử hoàn toàn không phải lả rập khuôn giáo lý gốc của Phật mà chính là đã thổi vào đó những giá trị tươi mới và tích cực – đó là quan điểm Phật tại tâm, tu theo thiền giáo song hành chứ không khuyến khích khổ hạnh (Ấn Độ) hay tham thoại đầu (Trung Hoa), càng không cho phép coi nhẹ bổn phận công dân và lòng tự cường dân tộc – như trong bài phú “Cư trần lạc đạo” coi như một tuyên ngôn tư tưởng Trần Nhân Tông về cả đạo và đời, không chỉ giành cho riêng giới tu hành mà cho toàn dân tộc muốn đạt tới “Nhân hòa” để tìm phương vượt thoát và lớn mạnh.

 

Câu “Trăng sáng đầy cõi tâm” là dụ cho thiền sư chan rải ánh sáng giác ngộ đến mọi người một cách vô tâm. Đây cũng thuộc ngôn ngữ biểu tượng.

III. Kết luận:

Trong thi ca vốn đã ẩn chứa những gì sâu sắc nhất của tâm hồn, là những trang nhật ký của cuộc du hành trong sinh tử. Thi ca là những lăng kính nhìn đời của tác giả, nhưng khi nhìn đời bằng đôi mắt trí tuệ thì tất cả đều trở nên mầu nhiệm vô cùng, từ đó Thi ca cũng cất cánh bay lên theo tâm hồn rộng lớn của những vị Thiền sư. Thi ca trong Thiền học và Thiền học trong Thi ca, Thơ và Thiền đã hòa quyện vào nhau để trở thành những cung bậc tịnh thanh ngân vang muôn thuở.

Quy chiếu lại, đại ý của bài thơ này: Mở đầu là lên đường trở về tự tâm (2 câu đầu), thấy rõ tánh đối đãi của thế giới hiện tượng (2 câu thực), biết đó là lẽ đương nhiên và hoài bão "tâm truyển tâm" (2 câu luận), cách thức truyền bá thiển tông (2 câu kết). Như vậy cả bài thơ vừa tả cảnh ở núi Bảo Đài vừa trình bày cả quá trình tu tập bằng ngôn ngữ ẩn dụ và biểu tượng, vừa khéo léo vừa nên thơ, đầy thiền vị, nêu rõ yếu chỉ Thiền tông qua cách nhìn sự vật theo pháp thiền đốn ngộ của Lục tổ dạy và cũng nói lên hoài bão cùng cách thực hiện hoài bão đó của đức Điều Ngự Giác Hoàng, sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.

 

Nếu như Đức Điểu ngự Giác hoàng nói "Bách niên tâm ngữ tâm" thì hiện tại chúng ta không gì hơn là tiếp tục hoài bão của Ngài bằng cách tu học thật tốt làm cho thiền phái Trúc Lâm ngày càng vững vàng và lan rộng. Đó cũng chính là cách giúp cho dân tộc Đại Việt có tinh thần tỉnh thức tự lực tự cường của đức Phật Hoàng, sơ tổ Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm.

 

Văn học gia, sử học gia đời Kim là Nguyên Hiếu Vấn đã từng nói: Thơ là chiếc áo gấm thêu hoa của thiền khách, Thiền là chiếc dao gọt ngọc của thi gia thì quả thật bài thơ này là chiếc áo nạp đính trân châu cực kỳ quý giá của Đức Phật hoàng ban tặng cho chúng ta.

                                                

(Thích Thông Thiền - Thiền viện Chơn Không)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

[1] Từ điển Nho Phât Đạo, Nhiều tác giả, NXB Văn học Hà Nội (2001)

 

 

view(423)

0 Comments

Add new comment