Hòa thượng Thiện Hoa

Posted by tranminhhuydn on Wed, 22/01/2025 42:10

Bài Tham Luận

Chủ đề: Di sản Tổ sư Thiện Hoa và Thiền phái Trúc Lâm

HOA LÀNH SANH TRÁI NGỌT


HT. Thích Thông Thiền

Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, các bậc anh tú trong nhà Thiền khi thị tịch thường để lại những di sản mà phần lớn là di sản văn hóa. Trong đó có thể là văn hóa vật thể hoặc tầm vóc tư tưởng và phong cách sống của con người như những đệ tử xuất sắc… Chúng ta tưởng niệm cùng khảo sát cuộc đời và sự nghiêp đạo pháp của Hòa thượng Tổ sư xem Ngài đã để lại di sản gì và có ảnh hưởng ra sao đối với Thiền phái Trúc Lâm.

I. DI SẢN VẬT THỂ

Tổ sư xây dựng chánh điện Tổ đình Phước Hậu, là công trình xây mới vào năm 1962 bằng vật liệu hiện đại theo mô hình kiến trúc kết hợp Đông – Tây. Đây cũng là nơi Hòa thượng Tông sư dừng chân tu học.

II.  TẦM VÓC TƯ TƯỞNG VÀ PHONG CÁCH SỐNG

  1. Tầm vóc tư tưởng

Từ năm 1953 đến năm 1965, Hòa thượng Tổ sư soạn xong:

- 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lý.

- Bản Đồ Tu Phật (10 tập)

- Duy Thức Học (6 tập)

- Tám quyển sách quý gồm: Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhơn Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Trong Đạo Phật và Năm Yếu Tố Hòa Bình.

- Tổ sư lại chịu trách nhiệm xuất bản đề tên nhà sách Hương Đạo[1] Tổ sư đã có sáng kiến quý báu, công trình trước tác, phiên dịch đáng kể. Ngài đã đóng góp cho nền văn hóa Phật giáo nói riêng, quốc gia nói chung, một phần rất quan trọng và đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng Thiền học của vị đệ tử Ngài là Hòa thượng Thanh Từ. Trong các dịch phẩm của Tổ sư trong bộ Phật Học Phổ Thông[2] có những quyển kinh như: Kinh Kim Cang (khóa 12) , Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm (khóa thứ 6, 7) mà Hòa thượng Thanh Từ đã lãnh hội từ Tổ sư để sau này toát yếu lại trong quyển Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, một tác phẩm trọng yếu của Thiền phái Trúc Lâm đương đại. Các kinh Viên Giác (khóa thứ 8), Luận Đại Thừa Khởi Tín (khóa thứ 10, 11) trong bộ Phật Học Phổ Thông3  được Hòa thượng Thanh Từ dùng tham khảo giảng giải cho Tăng Ni các khóa tu thiền tại Chơn Không, Linh Quang và Thường Chiếu năm 1974-1990. Nhìn chung Tổ sư đã trước tác khoảng 20.000 trang[3].

Nếu nói Tổ sư tâm nguyện lập ra chương trình dạy Phật Pháp bằng chữ Việt nên soạn bộ Phật Học Phổ Thông giúp cho tín đồ thoát khỏi tình trạng hiểu Ðạo một cách nông cạn hay sai lạc, thì Hòa thượng Tông sư đã tiếp nối công trình đó của Tổ sư. Hòa thượng đã Việt hóa Kinh Phật các tác phẩm của chư tổ và nghi thức tụng niệm thuộc Thiền tông nên cho ra đời các kinh sách (nay nằm trong bộ Thanh Từ Toàn Tập) nhằm trừ dẹp mê tín, hiểu biết còn hạn chế của giới học Phật. Tiến thêm một bước, Hòa thượng lập ra Tu viện Chơn Không, khai mạc Khoá I Tu thiền tại Thiền viện Chơn Không vào đầu năm 1971 nhằm khai thông đường lối tu hành cho Tăng Ni.

Các trước tác và dịch phẩm của Hòa thượng Tông sư được hàng đệ tử tập đại thành là bộ Thanh Từ Toàn Tập, gồm 49 quyển, mỗi quyển khoảng 800 đến 1000 trang[4].

Phong Cách Sống

Tổ sư khai sinh, hun đúc ra tầm vóc tư tưởng và phong cách sống của một vị đệ tử ưu tú là Hòa thượng Tông sư, đã phục dựng Thiền phái Trúc Lâm và đó là di sản sáng giá nhất trong mọi di sản. Hòa thượng Tổ sư và Hòa thượng Tông sư: Hai cuộc đời, hai cá tính, nhưng trên phong cách sống, làm Phật sự, cống hiến cho cuộc đời tấm gương trí tuệ và đạo đức lại có những điểm rất giống nhau!

Khảo sát về cuộc đời của Tổ sư, chúng ta thấy con người của Ngài đã thể hiện rõ nét qua bốn đức tính sau đây:

1. Tự tín

2. Quả cảm

3. Chân thành, cần mẫn

4. Hiếu nghĩa, thanh bạch.

Và vị Trưởng tử của ngài là Hòa thượng Tông sư cũng có đầy đủ 4 đức tính ấy, có thể nói đa phần do thừa hưởng nơi Tổ sư.

Kể lại vài câu chuyện về Tổ sư và Trưởng tử của Tổ như tấm gương sáng để chúng ta soi lại mình và chính bốn đức tính này không chỉ cần thiết cho hàng Tăng Ni hậu học nói chung, cho hàng đệ tử đệ tôn Thiền phái Trúc Lâm nói riêng trong lúc tu học mà còn là hành trang không thể thiếu cho Tăng Ni chúng ta khi đi vào đời hóa độ chúng sanh.

1. Tự tin

1.1. Hòa thượng Tổ sư[5]:

- Tin mình có khả năng thành Phật: Đức tự tín đã được Tổ sư thể hiện từ tuổi thơ xuất gia với khẩu khí hơn người là xuất gia để làm Phật. Hòa thượng nói (trong Tài liệu nghiên cứu và diễn giảng: - “Chánh nhân Phật tánh”: là tất cả chúng ta ai cũng sẵn đủ Phật tánh.  - “Duyên nhân Phật tánh” là nhờ Thầy bạn tốt và giáo pháp liễu nghĩa của Đại Thừa khai mở. - “Liễu nhân Phật tánh” là nhờ có chánh nhân, duyên nhân, đủ duyên, biết đường lối tu hành mà chứng ngộ đạo quả, đầy đủ các phép thần thông, diệu dụng.

- Tin mình có khả năng đảm đương việc lớn:

Trong suốt quá trình tu học từ lớp gia giáo, Phật học đường Lưỡng Xuyên đến hành trình ra Huế học Phật pháp. Sau đó lãnh những trọng trách do Giáo hội Tăng già Nam Việt giao phó.

1.2. Hòa thượng Tông sư[6]:

- Sau khi dạy ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi, Ngài thấy mình phần nào đã trả được công ơn Thầy Tổ và Giáo Hội, nên xin ra Vũng Tàu cất thất tu Thiền. Trong pháp hành, ngài trải qua bao khó khăn, nhờ tự tin mà Hòa thượng đã tu thiền và sáng đạo.

- Dòng thiền Việt Nam cuối thế kỷ 20 xuất phát từ Chân Không, Thường Chiếu, Trúc Lâm Phụng Hoàng, rồi chảy ngược về thượng nguồn Yên Tử mang theo hoài bão khôi phục thiền tông năm xưa của Hòa thượng. Sức sống thiền lan tỏa khắp ba miền, mạch Tào Khê tuôn chảy khắp muôn nơi, nhuần gội thân tâm khách hữu duyên, há không phải do tự tin mà được sao!

  1. Quả cảm

2.1. Hòa thượng Tổ sư:

Năm 1946 và 1947, thấy tình cảnh chiến tranh của đất nước càng ngày càng tăng và thấy Tăng sĩ một phần đã cởi áo Cà Sa mặc chiến bào, Hòa Thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sái Gòn. Lúc bấy giờ Phật Học Đường Phật Quang chỉ còn lại một mình Hòa Thượng Thiện Hoa gánh vác tất cả mọi Phật sự, vì thế Phật Học Đường này đã khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một mình Hòa Thượng vừa dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.

Năm 1953, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử Ngài giữ chức Trưởng Ban Giáo  Dục và Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, kiêm Đốc Giáo Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang, Sài Gòn. Ngoài việc đích thân giảng dạy cho học Tăng ở trường này, Ngài còn dạy các Phật học Ni trường Từ Nghiêm và Dược Sư. Số lượng Tăng Ni được đào tạo ra từ các trường đều là những vị xuất sắc sau này phụ lực với Ngài đảm đang các Phật sự của Giáo hội cũng như công tác hoằng pháp và giáo dục.

         Năm 1964, Ngài nhận chức Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, kế đến nhận chức trụ trì Việt Nam Quốc Tự.

          Năm 1966, Ngài đảm nhận chức Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Trong giai đoạn này mặc dù có nhiều sóng gió, nhưng Ngài vẫn vững vàng chèo chống, lấy sự tồn tại của đạo pháp trong sự tồn tại của dân tộc làm đường lối lãnh đạo.

          Năm 1968, Ngài được toàn thể đại biểu bỏ thăm lưu nhiệm chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Lúc ấy dù căn bệnh đã bộc phát, nhưng Ngài vẫn không nề hà gánh lấy trách nhiệm Giáo Hội càng ngày càng nặng nề. Trong giai đoạn này, mọi Phật sự   đáng kể ở miền Nam đều được Ngài khuyến khích trợ giúp đến thành công.

          Qua những nhiệm vụ nặng nề và khó khăn mà Tổ sư đảm đương chứng tỏ Ngài có quyết tâm và dũng khí. Bởi quả cảm là đức tính sẵn có nơi con người của Ngài nên trước cảnh hiểm nguy, Ngài vẫn điềm nhiên xem như không có gì.

2.2. Hòa thượng Tông sư:

Năm 1966 Ngài một mình một bóng lên núi Tương Kỳ hoang vắng để khai sơn, cất thất tu thiền.

Trong hành trình tìm về cội nguồn Yên Tử , Hòa thượng Tông sư đã dũng cảm vượt qua khó khăn về địa hình hiểm trở và rào cản về tín ngưỡng vùng miền để thực hiện hoài bão khôi phục Thiền phái Trúc Lâm.

Học cái hay của người xưa mà không nệ cổ[7] Ngài chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần là cái nhìn trở lui về quá khứ. Đứng về mặt truyền thống không thể chỉ có ngày nay mà không có những ngày xưa. Lấy những kinh nghiệm hay của người xưa ứng dụng trong hoàn cảnh hiện nay thì hữu ích. Bắt người nay rập khuôn theo người xưa là nệ cổ lạc hậu. Ngài chắt lọc những cái hay của Phật giáo đời Trần trình bày cho Tăng Ni. Là một tu sĩ Phật giáo Việt Nam có trách nhiệm và nhiệt tình thì thấy điều gì hay trong Phật giáo Ngài tán thán, biết việc gì dở Ngài góp ý, đều nhằm mục đích xây dựng Phật giáo Việt Nam mà thôi.

          Tăng Ni, Phật tử hiện nay xem thấy điều nào thích hợp áp dụng được thì áp dụng, không phải đem cái khuôn của Phật giáo đời Trần bắt buộc người thời nay rập theo. Ngài dạy phải có cái nhìn chín chắn công bằng và thông cảm đối với hoàn cảnh của người xưa, lượm lặt những cái hay đưa đến thành công, trên đường đạo cũng như đường đời, điều nào ứng dụng được hữu ích trong hoàn cảnh chúng ta hiện nay thì ứng dụng. Tinh thần quả cảm, minh triết đó đâu phải ai cũng làm được!

3. Chân thành, cần mẫn

3.1. Hòa thượng Tổ sư:

Năm 1946 -1947, phong trào chống Pháp cứu nước đã ảnh hưởng đến trường học. Hòa thượng Trí Tịnh trở lên Sài Gòn, chỉ còn Tổ sư ở lại.

  • Vừa dạy học vừa mở phòng thuốc giúp đỡ nhân dân,
  • Đốn cây điên điển làm củi chụm, ủ rơm chất nấm.
  • Thi đua lao động, hướng dẫn Tăng Ni trồng hoa màu phụ, đặt tên các loại cây trồng theo danh số Phật học như Tứ đế, Bát chánh đạo… HT. Thích Phước Cẩn, Trụ trì chùa Phước Hậu được nghe kể lại: Người nào trồng đạt yêu cầu thì được Tổ sư thưởng danh dự…

Tổ sư hướng dẫn Tăng Ni vừa làm công tác chẩn trị y học vừa học kinh điển. Tổ sư lại mở những lớp học bình dân dạy ban đêm để chống nạn mù chữ. Học viên đạt kết quả nhanh chóng nhờ Tổ sư có sáng kiến soạn tập sách Vần chữ O.

Hữu chí cánh thành: 3 giờ khuya Tổ sư đã thức dậy công phu rồi ngồi vào bàn dịch kinh cho nên trải qua 10 năm miệt mài Ngài đã thành tựu bộ Phật Học Phổ Thông.

          "Cần mẫn" là một yếu tố cần nhất trong mọi công việc, nhất là việc sáng tác và phiên dịch. Công việc này đòi hỏi rất nhiều sự ‘cần cù, rị mọ", ngồi cặm cụi suốt ngày đêm trên bàn viết, từ tháng này đến năm nọ.

Năm 1957, Tổ sư lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trụ trì lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư. Những vị tốt nghiệp các khóa này được bổ về chùa khắp lục tỉnh tập sự hoằng pháp. Phong trào này làm dấy lên sự tu học của tín đồ Phật tử và là mơ ước của mọi Tăng Ni muốn trở thành sứ giả Như Lai.

          Với trách nhiệm Trưởng ban Giáo dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Tổ sư đã khuyến khích, hỗ trợ mở trường Phật học tại khắp các tỉnh miền Tây và chính Tổ sư giảng dạy khắp nơi để động viên các trường. Hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Tổ sư ít nhiều, dù gián tiếp hay trực tiếp.

          Với trách nhiệm Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, đích thân Tổ sư huấn luyện Tăng Ni thành Giảng viên thật sự có thể đi diễn giảng các nơi. Tổ sư còn huấn luyện hàng cư sĩ theo học có khả năng truyền đạt lại cho các lớp học sau.

          Tổ sư đã mở các lớp giáo lý Phật học phổ thông do Tổ sư chủ trương tại các chùa Ấn Quang, Phước Hòa, Xá Lợi, Giác Tâm, Dược Sư… để giảng dạy cho Phật tử, làm cho phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy mạnh mẽ, người người hăng say tu học.

          Năm 1956, Tổ sư giữ chức vụ Ủy viên Hoằng Pháp của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, cùng với chư Tôn đức xuất bản nguyệt san Phật Giáo Việt Nam, tổ chức phát thanh Phật giáo hằng tuần trên đài phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, Tổ sư xin lập nhà xuất bản Phật giáo lấy tên Hương Đạo do Tổ sư chịu trách nhiệm, và chủ trương một Phật học Tùng thư với tám chuyên đề sách.

Chính Hòa thượng đã từng dạy Tăng Ni: “Chỗ nào chúng sanh mời thì mình đến, chỗ nào đạo pháp cần thì mình đi, không kể gian lao chẳng từ khó nhọc”[8]. Hòa thượng cũng thường sách tấn Tăng Ni lo chung cho Đạo pháp: “Một con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ cần một thằng chăn. Tại sao khuôn mình trong chỗ hẹp mà quên đi việc lớn?”[9]. Những lời này xuất phát từ lòng chân thành của Tổ sư.

          Khi về chùa Phước Hậu, người dân quanh chùa thường dùng danh xưng “Thầy Trưởng Ban” để gọi Tổ sư một cách bình dị thân thương. Mỗi đêm Hòa thượng tụng kinh Phổ Môn, ngoài ra còn lạy sám hối những lỗi lầm nếu có trong lúc làm việc. Tính cần mẫn chân thành của Tổ sư đêm ngày không dám lơi lỏng cho nên đưa đến nhiều thành tựu to lớn. Điều đó chúng ta thấy rõ qua những việc làm của Tổ sư.

          3.2. Hòa thượng Tông sư

          Ngài muốn trên đường tu của mình, từ khi mới bắt đầu cho đến phút cuối cùng, lúc nào cũng nỗ lực, cũng tinh tấn đi cho hết con đường. Dù biết rằng đường rất dài, tới khúc nào đó ta cũng kiệt lực, nhưng phút kiệt lực chúng ta vẫn là người đang đi, chớ không nên ngã quị nửa đường. Được như vậy mới xứng đáng, mới không hổ thẹn mình là người có trách nhiệm lãnh đạo Tăng Ni, Phật tử tu hành. Do vậy lúc nào Ngài cũng tha thiết, cũng muốn làm cho xong phần mình, rồi sau mới kêu gọi Tăng Ni cùng làm.

          Thứ đến Ngài muốn nhắc cho Tăng Ni, Phật tử biết việc làm đạt được kết quả tốt là do tấm lòng chân thành. Ngài lo cho Phật pháp, lo cho Tăng Ni, chỉ một bề làm sao cho Tăng Ni tu được, học được, làm sao cho tất cả Phật tử đến với mình phát tâm Bồ-đề ngày càng rộng lớn.

          Điều chân thành sau cùng là Ngài muốn nhắc nhở cho Tăng Ni nhớ thật kỹ, chúng ta làm Phật sự phải đúng nghĩa Phật sự, vì muốn cho tất cả chúng sanh hiểu Phật pháp. Ngài chỉ mong cho Tăng Ni, Phật tử làm sao thức tỉnh, làm sao giác ngộ để đánh tan mê lầm muôn đời của mình, lần lần tiến lên, chớ không nên mong một điều gì khác.

Qua cuộc đời tu hành và hoằng pháp của Hòa thượng, chúng ta thấy Ngài thể hiện rõ nét lòng chân thành và đức tính cần mẫn này.

4. Hiếu nghĩa

4.1. Hòa thượng Tổ sư:

          Mặc dù là người xuất gia, nhưng Tổ sư vẫn không quên chữ hiếu. Lúc Tổ sư còn dạy học tại chùa Phật Quang, cụ bà cũng lập am gần đó. Mỗi khi cụ bà bệnh, đích thân Tổ sư chích thuốc, hoặc chẩn mạch ra toa hốt thuốc. Khi cụ bà tịch, Tổ sư gắng hết sức mình để hoàn thành quyển sách Bài Học Ngàn Vàng cúng dường Tăng Ni, nguyện đem công đức hồi hướng cho thân mẫu.

          Về ân nghĩa, Hòa thượng thọ dụng của ai thì không bao giờ quên. Vì thế mỗi khi dạy đồ chúng, Hòa thượng thường nhắc lại công ơn của quý Tổ sư xưa đã dạy bảo cho Ngài. Nghe tin Sư cụ Bổn sư viên tịch, Hòa thượng đã nỗ lực hoàn thành dịch phẩm Luận Đại Thừa Khởi Tín để dâng lên cúng dường hồi hướng cho Thầy mình.

Khi Tổ sư bệnh nằm tại bệnh viện Đồn Đất, nhận được tin vợ thí chủ Trương Hoàng Lâu tạ thế, Tổ sư không trực tiếp đến được nên gọi hai đệ tử là Hòa thượng Thanh Từ và Hòa thượng Phước Hảo đi thay Ngài. Ông Chủ Kiểng là thí chủ bị bệnh nặng sắp mất, lúc Hòa thượng đang nhập hạ. Hòa thượng bảo ông niệm Phật trong 3 tháng chờ Hòa thượng giải hạ sẽ vì ông mà khai thị hộ niệm cho. Và sự việc xảy ra đúng như thế.

          4.2. Hòa thượng Tông sư

Ngài xuất thân trong một gia đình trung nông, phụ thân theo nghiệp Nho nên cuộc sống an bần thanh đạm. Từ nhỏ, Hòa thượng đã thể hiện lòng hiếu thảo, luôn quan tâm chăm sóc cha mẹ khi đau yếu cũng như những lúc gặp khó khăn. Chuyện gì ngài cũng làm để đỡ đần cơ cực cho mẹ cha. Sau này về núi, trở thành một sơn tăng. Bà mất, rước phụ thân lên non, Ngài vẫn trọn lòng hiếu thảo quan tâm như ngày nào.

Bốn đức tính kể trên của Hòa thượng Tổ sư, Hòa thượng Tông sư đã toát lên đạo phong của hai vị và các Ngài đã cống hiến cho cuộc đời tấm gương trí tuệ cùng đạo đức cho muôn đời sau.

          Như vậy, rõ ràng là những gì Tổ sư và Trưởng tử của Ngài dạy người học nên làm, các Ngài đều đã làm qua. Những đức tính quý báu đó đã thể hiện trong sinh hoạt đời thường của các Ngài khiến chúng ta, đàn hậu học đệ tử đệ tôn của quý Ngài càng thêm kính cẩn cúi đầu.

III. KẾT LUẬN

Thiết nghĩ bốn đức tính kể trên chính là bốn nhân tố ắt có và đủ để Hòa thuợng Tổ sư cải cách về Giáo dục và Hoằng pháp làm nên công cuộc chấn hưng Phật giáo. Và còn nữa, Ngài đã sản sinh vài bậc anh tài cho đạo, đặc biệt là Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm, vô hình trung lại rất khế hợp với pháp danh của Ngài và người kế thừa:

“Hoa lành sanh trái ngọt” hàm nghĩa hoa tốt đẹp đã nở trọn vẹn thì chắc chắn kết thành quả ngọt thanh tịnh từ bi và thật là ruộng phước cho mọi người cùng hưởng. Đó là di sản sáng giá nhất trong mọi di sản mà Tổ sư Thiện Hoa để lại.

 

[1](https://thuvienhoasen.org/a26257/tieu-su-hoa-thuong-thich-thien-hoa-1918-1973) ngày truy cập: 20/10/2023.

[2] Hòa thượng Thích Thiện Hoa (2021), Phật Học Phổ Thông, Nhà Xuất Bản Hồng Đức.

[3] (khổ 15x20,5, size chữ 16)

[4] (khổ 16x24, size chữ 18)

[5] Hòa thượng thượng THIỆN hạ HOA

[6] Hòa thượng thượng THANH hạ TỪ

[7] HT.Thích Thanh Từ, 2009, Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi, nxb Tôn Giáo, tr. 82.

[8] Hướng Chân (2004), Viết về thầy-Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Nxb.Tổng Hợp Tp hồ Chí Minh, tr 19.

[9] Nhiều tác giả (2016), Thầy Tôi, Nxb Trung Đạo, Hoa Kỳ, tr. 24.

view(244)

0 Comments

Add new comment