Hòa thượng Thích Minh Châu
HÒA THƯỢNG MINH CHÂU
(1918-2012)
Bậc thầy phiên dịch kinh tạng Pali và Viện trưởng Đại học Phật giáo Việt Nam
Huyền Trang của nước Việt Nam
Mở thơm dịch phẩm cho hàng hậu lai
Ấn Âu đệ nhất kỳ tài
Kinh bộ Việt tạng sáng lời Phật ngôn
Pāli chuyển ngữ hồn nhiên,
Kinh tạng năm bộ mấy ai sánh bằng.
Đời “Ôn” ngọn đuốc soi đường
Tinh cần học tập tuổi xanh vào đời
Trưởng thành học Phật tuyệt vời
Tham gia tích cực hội ngài Tâm Minh.
Đại học Vạn Hạnh thời danh
Tài năng viện trưởng bao người kính yêu!
Đức lành giáo dục Tăng ni
Từ bi trí tuệ rạng đời cao Tăng!
Hoài bão của Hòa thượng Minh Châu là Duy Tuệ thị nghiệp tức người xuất gia cần có khả năng nhìn xa trông rộng, hình dung được bức tranh toàn cảnh rõ nét về việc lớn mà mình có thể làm được, cũng là tương lai của Phật giáo Việt Nam. Ý nghĩa của hoài bão đó là phương châm “Chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Muốn thực hiện tầm nhìn đó, theo Hòa thượng phải làm hai nhiệm vụ quan trọng: Phiên dịch Kinh tạng và mở trường Đại học giáo dục Tăng Ni. Chúng ta hãy khảo sát hai công việc cần gánh vác đó trong suốt cuộc bình sinh của Ngài.
- Phiên dịch kinh tạng Pāli
Huyền Trang của nước Việt Nam
Mở thơm dịch phẩm cho hàng hậu lai
Ấn Âu đệ nhất kỳ tài
Kinh bộ Việt tạng sáng lời Phật ngôn
Pāli chuyển ngữ hồn nhiên,
Kinh tạng năm bộ mấy ai sánh bằng.
Nếu như Trung Quốc có Tam tạng Đường Huyền Trang dịch kinh từ Phạn sang Hán thì ở Việt Nam chúng ta tự hào có Hòa thượng Minh Châu dịch tạng kinh từ Pāli sang Việt ngữ.
Trong quá trình nghiên cứu Kinh Luật Luận Hán tạng, Hòa thượng thấy cách phiên âm các từ ngữ Pāli, Sanskrit mỗi người mỗi khác, khiến bản văn trở nên khó hiểu. Từ đó, Ngài xin phép bổn sư là Hòa thượng Tịnh Khiết và Hội Phật học Trung Phần cho phép mình xuất dương tu học tại Sri Lanka và Ấn Độ về Kinh Luật Luận Pāli và Sanskrit, nguyện sau này về nước tiếp tục phiên dịch kinh điển làm phong phú kho tàng Tam tạng nước nhà. Năm 1952, được sự chấp thuận của Giáo hội và Hòa thượng bổn sư, Hòa thượng du học tại Sri Lanka, học Pāli và Anh văn tại Colombo. Năm 1955, Hòa thượng được Trường Đại học Tích Lan tặng bằng Pháp sư (Saddammcariya). Sau đó, Hòa thượng sang Ấn Độ và theo học tại Nava Nalanda Mahavihara thuộc Đại học Bihar (Ấn Độ). Nếu như trước đó Ngài với luận án “So sánh tập Pāli Trung bộ kinh với tập Trung A hàm chữ Hán” (The Chinese Madhyama gama and The Pāli Majjhima Nikaya), thì đến tháng 9 năm 1961, Hòa thượng là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ Phật học, Văn học Pāli tại Ấn Độ, được đích thân Tổng thống Ấn Độ thời ấy đứng ra trao văn bằng Danh dự và khen ngợi không ngớt về luận văn này.
Khi về nước, Hòa thượng bắt tay vào việc phiên dịch và sau đó đã giới thiệu Kinh Tạng Pāli với các bản dịch 5 bộ Nikāya (Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Nhất Bộ Kinh, Tiểu Bộ Kinh), Ngài gián tiếp giới thiệu 4 bộ A Hàm là Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và vô số kinh tương đương khác thuộc nhiều học phái khác mà từ trước đến nay, rất ít người tham khảo. Trường A Hàm được Thượng tọa Thích Thiện Siêu dịch ra Việt văn nhưng không được đầy đủ. Trung A Hàm được T.T. Thích Thanh Từ và Đại đức Tuệ Sỹ dịch ra Việt văn nhưng chỉ dịch một số kinh và cũng chưa in thành sách. Bản chữ Hán tuy có học tại các Phật Học Viện, nhưng cũng chỉ trích học.
Vào thời đó, để trở thành một nhà phiên dịch Tam tạng Phật giáo đúng nghĩa cần hội đủ những yếu tố:
- Tôn trọng pháp bảo: Quý kính trân trọng những lời vàng từ kim khẩu đức Phật nói ra. Cần nuôi dưỡng tinh thần này và để tránh tình trạng rơi rụng ý nghĩa, thao tác bổ sung bằng cách Tra từ điển, tham vấn các bậc tôn túc, tận tâm, tận lực, tận ý, tận đắc, tận khảo.
- Đam mê công tác đơn điệu dễ gây nhàm chán, ít người theo đuổi đến cùng.
- Tinh thông ngôn ngữ nguồn, đích, thuật ngữ chuyên ngành.
Mục đích của Hòa thượng khi cầm bút phiên dịch là chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Ðộ, Trung Hoa hay Việt Nam. Theo quan điểm của Ngài thì chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy nên Ngài đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Nếu như ngôn ngữ Pāli là chiếc chìa khóa cho những ai thật sự muốn đi sâu vào ngôi nhà Phật học Nam truyền, thì nó cũng là một phương tiện đắc dụng cho những ai muốn thâm nhập Phật học Nam truyền.
Sự phiên dịch đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhiều dụng công kiên trì liên tục nếu như không đam mê thì khó bề thực hiện nổi. Phiên dịch Kinh tạng Pāli ở thời kỳ đầu tiên khi mà thuật ngữ Phật học bằng tiếng Việt còn rất khiêm tốn quả là một thách thức cho người dịch. Hầu hết các từ, ngữ của bản dịch phải vận dụng khá nhiều thuật ngữ Hán-Việt-Việt hóa, một hình thức ngôn ngữ vốn đã thấm sâu vào đời sống tâm linh của Phật tử Việt Nam.
Trong quá trình phiên dịch, Hòa thượng phải bỏ rất nhiều công sức để đối chiếu, so sánh các bản kinh trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là Hán tạng, nhằm tìm ra những thuật ngữ Phật học mới mẻ, trong sáng. Phải nói rằng sự uyên thâm Nho học (chữ Hán) và Tây học (tiếng Anh và tiếng Pháp) cùng với sự sáng tạo cá nhân là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một phong cách ngôn ngữ đặc thù của tạng kinh Nikaya bằng tiếng Việt.
Dấu ấn đọng lại trong tạng kinh Nikaya bằng tiếng Việt này là những triết lý giản dị, trong sáng bên cạnh một hệ thống từ ngữ Phật học hiện đại (của những thập niên 70). Đấy là những từ ngữ chuyên môn có những tương ưng về ý nghĩa cũng như những liên hệ về tư tưởng trong lịch sử Phật giáo, từ Nguyên thủy đến Phát triển.
Gần sáu mươi năm qua, các từ ngữ Phật học được dùng trong các bản kinh dịch này vẫn đóng vai trò nền tảng cho việc cắt nghĩa, giải thích, và phân tích tư tưởng Phật học. [1]
Hai mươi năm sau, khi các bản kinh đã được xuất bản và in ấn nhiều lần nhưng Hòa thượng vẫn cặm cụi đọc tới, đọc lui, sửa chữa và ghi chú ngay trên từng bản kinh mới in với tất cả sự cần mẫn. Hòa thượng làm như thể là Người mới đọc bản kinh lần đầu. Phong thái của một học giả đức hạnh dường như lúc nào cũng có mặt cùng với Hòa thượng. Phong thái ấy quả thực đã truyền một loại cảm hứng - khát khao đạo lý và tri thức - cho bất kỳ ai có duyên hội ngộ. Hẳn Người phải có một ý chí và nguyện ước phi thường mới có thể triền miên cả hàng chục năm trời để hoàn thành các bản dịch vĩ đại.
Nhưng làm thế nào để Hòa thượng đạt được thành quả này, nếu như trước đó Ngài không có nền tảng học thuật vững chắc? Chúng ta thử quay về thuở hoa niên của Ngài.
- Nhìn lại quá trình tu học của Ôn
Đời "Ôn" ngọn đuốc soi đường
Siêng năng học tập tuổi xanh vào đời
Trưởng thành học Phật tuyệt vời
Tham gia tích cực hội ngài Tâm Minh.
Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Hòa thượng cùng em trai là Đinh Văn Vinh đến với phong trào học Phật từ năm 1936, Ngài đảm nhiệm chức Chánh Thư kí của Hội Hội An Nam Phật học do bác sĩ Lê Đình Thám làm Hội trưởng. Kể từ đó, Hòa thượng gắn liền với Hội và là hạt nhân nòng cốt phát động phong trào yêu nước chống Pháp và phát động thanh niên tham gia học Phật. Hòa thượng là người đi đầu trong các phong trào này. Lúc bấy giờ, trong tư cách là một Phật tử, bên cạnh cụ Hội trưởng Tâm Minh Lê Đình Thám, Hòa thượng đã hoạt động tích cực về nhiều mặt, giúp phát triển Phật sự của 17 Tỉnh hội Phật giáo miền Trung.
Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại trường Khải Định-Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ nhiệm làm Thư kí Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm làm việc tại đây, Hòa thượng thấy nhiều bất công trong khâu xét xử, người dân bị xử ép oan sai nên đi xin thôi việc.
Trong thời gian làm việc ở Hội quán, Hòa thượng đã học hỏi và thâm hiểu giáo lý Đại thừa từ bác sĩ Lê Đình Thám cùng quý vị tôn túc trong sơn môn Thừa Thiên Huế; thời gian này, Ngài đã vào ở hẳn trong chùa Tường Vân và thực tập nếp sống thiền môn như điệu chúng trong chùa. Cũng từ đó, Hòa thượng quyết chí xin xuất gia. Năm 1946, Ngài đầu sư với Hòa thượng húy thượng Trừng hạ Thông, tự Chơn Thường, hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) tại tổ đình Tường Vân, thuộc làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được bổn sư ban cho pháp danh là Tâm Trí. Trải qua những tháng ngày hầu thầy và chấp tác nặng nhọc tại tổ đình cũng như việc Hội, Hòa thượng không bao giờ trễ nải. Người lúc ấy vừa là giảng sư, vừa là chú điệu đang tập sự thực hành nếp sống thiền môn. Công đức đã đầy đủ, năm 1949 (Kỷ Sửu) Hòa thượng được bổn sư cho phép thọ Cụ túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc do chính bổn sư làm Đàn đầu Hòa thượng. Trong Đại giới đàn này, Hòa thượng được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam đàn cụ túc và Hòa thượng bổn sư ban cho pháp tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung. Sau khi đã nhập vào hàng Chúng trung tôn, Hòa thượng vẫn không ngừng sinh hoạt với Hội Phật học Trung Phần, chuyên cần diễn giảng Phật pháp khắp các chùa Hội, hướng dẫn các thanh thiếu niên của Gia đình Phật tử, đóng góp bài viết cho tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa…, Chủ bút Tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh.
Chúng ta thấy rõ nơi con người Hòa thượng có đầy đủ tiêu chuẩn trên đây và cuối cùng Hòa thượng đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng những Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp Lạc này ẩn chứa trong từng chữ, tiềm tàng trong từng câu văn mà Ngài đã thể hiện qua ngòi bút. Công trình phiên dịch của Hòa thượng, một mặt đáp ứng sở nguyện xuất dương tu học của Ngài, một mặt xây dựng những tài liệu nghiên cứu đạo Phật cho các Học giả và Phật tử Việt Nam tham khảo để viết những tham luận về Phật giáo.
- Làm Viện trưởng
Đại học Vạn Hạnh thời danh
Tài năng viện trưởng bao người kính yêu!
Đức lành giáo dục Tăng ni
Từ bi trí tuệ rạng đời cao Tăng!
.
Có người bảo dịch kinh là một phận sự thuần chất tôn giáo, không dính gì đến Đại học. Có người khắt khe hơn lại chỉ trích: “Đang làm Viện trưởng một Viện Đại học mà dịch Kinh thì sẽ có hại cho trách nhiệm điều khiển một Đại học.” Hòa thượng đã chứng minh rằng dịch Kinh như Ngài đang làm cũng là một dịch vụ Đại học, không những không có xung khắc mâu thuẫn, mà chính là tiêu biểu tốt đẹp sự cho thâu hóa kiến thức và văn hóa nhân loại, cùng phát huy tinh thần cầu tiến, nghiên cứu, sáng tạo của Đại học. Từ trước các học giả nếu viết về Phật giáo chỉ có thể trích dẫn các sách, do các người ngoại quốc viết về Phật giáo, khó có thể tham chiếu từ tạng Pāli hay Hán Tạng, và như vậy có thể hiểu lầm và sai lạc. Nay các học giả có thể trích dẫn nơi bản dịch từ văn Pāli ra tiếng Việt của Ngài, lại có thêm nguyên văn Pāli đối chiếu. Như vậy sự trích dẫn được chính xác và khỏi lệch lạc.
Hòa thượng bảo:“Cho dịch và cho in các bản kinh Pàli, chúng tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các học giả, các sinh viên được đọc thẳng vào kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và sự tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của Đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những học giả và những phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. [2]
Những danh từ “Chuyển pháp luân” hay “Thuyết pháp” mang nặng tính cách trao truyền chơn lý, truyền thừa pháp môn và vì vậy phiên dịch Kinh điển là một dịch vụ thuần túy văn hóa và rất phù hợp với công tác điều hành một viện Đại học Phật giáo. Và khi Hòa thượng trực tiếp giới thiệu Kinh Tạng Pāli, Ngài đã gián tiếp giới thiệu kinh Tạng A Hàm cùng các kinh tương đương, và sự đóng góp này mang nặng tính chất vừa Văn hóa, vừa Đại học. Như thế, công tác phiên dịch kinh tạng cùng điều hành viện Đại học thực chất là hỗ tương chặt chẽ cho nhau.
Với châm ngôn “Duy Tuệ Thị Nghiệp” và hai mục tiêu: “xây dựng nhà giáo dục... làm sống dậy lòng tin cho tuổi trẻ”, bằng tinh thần bao dung, không kỳ thị, trong quá trình điều hành viện Đại học Vạn Hạnh tọa lạc tại số 222 đường Trương Minh Giảng, Ngài đã thỉnh mời các Hòa thượng từ nhiều tông phái của nhiều vùng miền đảm trách Khoa trưởng các Phân khoa như: Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Quảng Độ, Hòa thượng Mãn Giác, và đội ngũ giáo sư như Thượng tọa Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Tiến sĩ Thích Nguyên Hồng … và các vị như: Giáo sư Tôn Thất Thiện, Giáo sư Ngô Trọng Anh, Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Luật sư Bùi Tường Huân, Học giả Nguyễn Duy Cần, Cao Hữu Đính, Trúc Thiên, Phạm Công Thiện …
Niên khóa đầu tiên khai giảng vào năm 1964-1965, Hòa thượng Thích Minh Châu đã ký quyết định tuyển sinh và đào tạo hai phân khoa đại học gồm: Phân khoa Phật học và phân khoa Văn học & Nhân văn. Đến năm 1967-1973 thì Viện mở thêm phân khoa Khoa học xã hội, phân khoa Giáo dục, phân khoa Khoa học ứng dụng và một Trung tâm ngôn ngữ gồm bốn ban: Ban Anh ngữ, Ban Pháp ngữ, Ban Đức ngữ và Ban Nhật ngữ. Từ năm 1964 đến năm 1973 Viện đại học Vạn Hạnh đã có 5 phân khoa đào tạo, cấp bằng cấp trong lĩnh vực Khoa học xã hội cho đến Khoa học ứng dụng.
Chúng ta thấy tư tưởng dung hòa của Hòa thượng Viện trưởng được Ngài trình bày khi dịch quyển Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa của Nalinaksha. Dutt, qua những dòng như sau:
Dù cho sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và khía cạnh sai khác, lồng vào những bối cảnh có thể nói là mâu thuẫn, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy những sóng ngầm đồng nhất, thật sự nguyên thủy trong sự cố gắng trung thành của các nhà luận sư. Cho nên quan điểm của một số học giả Pāli cho rằng “những gì ngoài ba tạng Pāli là ngụy tạo” là nhận xét vừa nguy hiểm, vừa nông nổi, lạc hậu. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những cố gắng trung thành với đạo Phật Nguyên thủy của các nhà luận sư, như chúng ta đã thấy quá rõ ràng trong tập sách này; nguy hiểm hơn nữa là chúng ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật Nguyên thủy do chính các nhà luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lạc hậu vì ngày nay, các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp nhận một số tư tưởng Đại thừa là những tư tưởng của đạo Phật Nguyên thủy, và xác nhận chính trong tam tạng Pāli, được kiết tập trong một thời gian một vài thế kỷ, lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi Nguyên thủy xen kẽ vào.
Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A-hàm (Trung Hoa) với các tập Pāli Nikāya tương đương, các vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A- hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pāli. Thái độ của một số Phật tử Đại thừa, ngược lại, xem những gì về Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi, cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không muốn nói là ngây thơ, phản trí thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pāli, bốn bộ A-hàm và các Luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy; và làm vậy, chúng ta mắc mưu các nhà Bà-la-môn giáo đã khôn khéo loại bỏ những tinh hoa của lời Phật dạy ra ngoài Phật giáo bằng cách gán cho danh từ “Tiểu thừa”. Nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Đại thừa không được tìm thấy trong ba tạng Pāli và bốn bộ A-hàm, mà chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. [3]
Hòa thượng đã mở trường Đại học, trường Cao cấp, Học viện để đào tạo hàng ngàn Tăng Ni cấp cử nhân Phật học cho Giáo hội; hàng chục ngàn sinh viên có bằng cấp thành đạt cho xã hội. Viện Đại Học Vạn Hạnh cũng đi tiên phong mở đường cho một cao trào nghiên cứu đi thẳng vào lời dạy nguyên thủy của Đức Phật, khỏi bị những lệch lạc của học phái hay của Bà La Môn giáo. Điều quan trọng hơn nữa, Viện Đại Học Vạn Hạnh khuyến khích các học giả và các phật tử tự mình mở mắt tìm hiểu, suy tư đối chiếu, không có nhắm mắt tin theo, không có thụ động chấp nhận, trái lại phải biết thâu hóa, so sánh, để làm sáng tỏ những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.”… [4]
Sau khi đất nước được giải phóng, viện Đại học Vạn Hạnh dời về địa chỉ 750 Nguyễn Kiệm, phường 4, quận Phú Nhuận, TP.HCM và đổi tên thành Trường Cao Cấp Phật học Việt Nam (1983-1997) cũng do Ngài làm Viện trưởng cho đến năm 1980. Từ năm 1997, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam tại TP.HCM chính thức đổi tên thành “Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM.” . Từ năm 1984 Ngài giao hẳn quyền Viện trưởng lại cho Hòa thượng Thích Trí Quảng.
Năm 2016, Học viện mở thêm cơ sở 2 tại xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, do Hòa thượng Thích Trí Quảng làm Viện trưởng cho đến nay.
Lời nhắn nhủ của Ngài dưới cội Bồ Đề thiêng liêng trong chuyến hành hương chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ vào tháng 3/1994 do Ngài làm trưởng phái đoàn: “Là Phật tử Việt Nam đứng trước cây Bồ Đề, chúng ta trọn đời quy y Phật, trọn đời phục vụ Tam bảo và chúng ta nguyện đoàn kết nhau lại để xây dựng Đạo pháp ở Việt Nam; dù có gặp trở ngại khó khăn gì, chúng ta nguyện trọn đời tôn thờ Chánh pháp và phục vụ cho Chánh Pháp” đã được Ngài thực hiện đến cuối đời.
Dịch phẩm của Hòa thượng từ Kinh tạng Pāli
1. Trường bộ kinh (2 tập)
2. Trung bộ kinh (3 tập)
3. Tương ưng bộ kinh (5 tập)
4. Tăng chi bộ kinh (5 tập)
5. Tiểu bộ kinh: gồm các tập sau
- Pháp cú (Kinh Lời vàng)
- Kinh Phật tự thuyết
- Kinh Phật thuyết như vầy
- Kinh Tập
- Trưởng lão Tăng kệ
- Trưởng lão Ni kệ
- Bổn sanh (2 tập)
6. Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhamma Atthasangaha)
4. Kết luận
Tựu trung, Hòa thượng Minh Châu, một tấm gương miệt mài phiên dịch Kinh tạng, cần mẫn, tận tâm điều hành Học viện Phật giáo, thế hệ chúng ta chỉ có vài vị. Vài vị, nhưng là những ngọn đuốc soi sáng đường đi cho cả một nửa thế kỷ. Chúng ta, hàng hậu học nếu theo sự nghiệp phiên dịch Tam tạng và giáo dục Tăng Ni thì hãy sống như Hòa thượng đã sống, hãy nói như Hòa thượng đã nói, hãy làm như Hòa thượng đã làm. Hãy thấy hình ảnh Ngài trước mắt để sống minh triết, sống cống hiến trên con đường phụng sự đạo pháp mà chúng ta đang dũng mãnh bước tới.
[1] Nhiều tác giả, Kỷ Yếu Tưởng Niệm Cố Trưởng Lão HT Thích Minh Châu, Khoảnh khắc ..."viên thành"của nhà phiên dịch kinh tạng PĀLI . Khải Thiên, Nxb Hồng Đức 2012) .
[2] Sách Chánh Pháp và Hạnh Phúc, Nxb Tôn Giáo 2001, trang 238-246)
[3] Thích Minh Châu, Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa, Nxb Tôn Giáo 2015).
[4] Kỷ Yếu Tưởng Niệm Cố Trưởng Lão HT Thích Minh Châu
0 Comments
Add new comment