GIÁO DỤC TÔNG MÔN
MỘT GÓC NHÌN VỀ GIÁO DỤC TÔNG MÔN
Tham Luận
Tại Hội Thảo Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam: Truyền Thống Và Hiện Đại
Giáo dục là một trong những công tác trọng yếu của Phật giáo mà Giáo hội rất quan tâm, nên nền giáo dục nào cũng cần có triết lý giáo dục cần thiết để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Vấn đề là triết lý đó có phù hợp với thời đại hay chưa. Nếu chưa phù hợp ta phải định danh lại, và để định danh lại giáo dục Phật giáo, chúng ta cần trả lời ba câu hỏi: Thế nào là một tu sĩ lý tưởng? Chúng ta có muốn tạo ra những con người như thế không? Và làm thế nào để tạo ra những con người như vậy? Đã đến lúc chúng ta cần ngồi lại để nghĩ cho đến tận cùng: chúng ta muốn tạo ra những con người như thế nào cho xã hội trong tương lai? Đó cũng chính là mục tiêu của giáo dục tông môn.
Tông môn chính là tên gọi khác của Thiền tông. Người học trong tông môn sẽ định nghĩa lại sự học và làm chủ được sự học của mình thông qua ba câu hỏi: Học để làm gì? Học những gì để đạt mục tiêu đó? Học như thế nào? Xa hơn, bản thân người học cũng cần biết rõ là mình muốn trở thành ai và làm sao để trở thành một con người như vậy. Có những vị tu hành nói: “Học càng cao càng ngã mạn”, nhận xét đó không phải không có lý do khi một số tăng ni sinh coi việc học để có bằng cấp là phương tiện mưu sinh. Mặt khác do bản lĩnh tu tập chưa vững, ý thức học tập chưa cao nên Tăng Ni sinh dễ bị ngoại cảnh tác động, chi phối, đây là một vấn đề đáng quan tâm trong đời sống hiện nay. Bởi vậy, ngoài việc làm tốt công tác tuyển sinh vào các trường từ bậc Cao Đẳng Phật Học trở lên, các Tăng Ni sinh luôn luôn phải xác định tốt mục tiêu học tập “Học để làm gì? Nhất là trong bối cảnh xã hội thay đổi, tri thức – khoa học xã hội tiến bộ, đời sống kinh tế, nhận thức con người nâng cao, để từ đó có động cơ học tập đúng đắn, có phương pháp học tập tiên tiến, kết hợp tốt giữa tu – học, học phải đi đôi với hành.
Từ góc độ giáo dục Phật giáo Thiền tông, giáo dục không chỉ là sự dạy và học mà còn là quá trình chuyển hóa nội tại, cải tạo nhận thức để bản thân tu sĩ có đời sống an lạc, hạnh phúc; bên cạnh đó là hướng dẫn giúp đỡ tha nhân. Chúng ta thử khảo sát nền giáo dục Phật giáo Thiền tông từ thời cổ đại đến trung đại đã hình thành và phát triển như thế nào, rồi từ đó mới cảm thông được góc nhìn này.
I. MÔ HÌNH GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
Vào thời cổ đại, đức Phật đã nói đến con đường tu học thông qua Giới (sìla), Định (samàdhi) và Tuệ (pannà), có bốn yếu tố liên quan đến quá trình giáo dục của đức Phật tạo thành những nền tảng căn bản cho nền giáo dục Phật giáo là:
1. Ðức Phật là bậc thầy mẫu mực.
2. Giác ngộ giải thoát bằng trí tuệ là mục đích tối hậu của giáo dục Phật giáo.
3. Tăng đoàn là hội chúng có học có tu, thông qua con đường giới định tuệ.
4. Những tu viện là cơ sở nền tảng cho nền giáo dục Phật giáo.
Ðức Phật là bậc Ðạo Sư mẫu mực về đạo đức, trí tuệ và lòng từ bi, là người Thầy rất gần gũi với muôn loài. Bất cứ một sự kiện nào xảy ra chung quanh sinh hoạt của tăng đoàn hay Phật tử. Ngài cũng có thể biến nó thành đề tài giảng dạy thú vị, sâu sắc. Cảnh một bà mẹ khổ đau vì con chết, kẻ chăn bò bươn bả tìm kiếm đàn bò, người nông dân bắt gặp túi vàng bên bờ ruộng… đều là đề tài cho những bài pháp sống động của Ngài. Vì thế giáo dục Phật giáo mang tính nhân bản và thiết thực, gần gũi với đời sống con người, chớ không huyền bí kỳ lạ xa xôi. Bất kỳ chúng sanh nào cũng có thể đến với Ngài, tự nhiên và đầm ấm như con đến với mẹ.
Thế Tôn sống khiêm tốn, giản dị và tuyệt đối thanh tịnh, Ngài không dùng thần thông giáo hóa chúng sanh mà chỉ dùng biểu nghi thân giáo của một bậc giác ngộ giáo hóa chúng sanh. Đó cũng chính là phương thức độ sanh của các đức Như Lai. Tùy căn cơ riêng biệt của mỗi đối tượng mà Ngài tuyên giảng, khiến cho tất cả đều được lợi ích. Thế Tôn thường bắt đầu giảng dạy bằng những điều đã hiểu biết thông qua sự tu tập và nhấn mạnh vào điều ấy như một nguyên tắc căn bản trong giáo huấn. Đức Phật không hề dùng đến những suy đoán lãng phí thời gian và khuyên chúng ta nên cố gắng nhận biết sự vật đúng như thực bản chất của nó. Tóm lại, con đường giáo dục của đức Phật nhắm vào là sự học hiểu lẫn thực hành. Đức Phật không khen ngợi những ai học rộng hiểu nhiều mà chỉ chú trọng ở chỗ ứng dụng của mỗi hành giả. Một kiến thức khiêm tốn nhưng nếu áp dụng tốt sẽ được đánh giá cao hơn kho kiến thức rộng lớn mà thiếu sự nỗ lực hành trì.
Cố Hòa thượng Thích Minh Châu - Viện trưởng Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Đường hướng giáo dục của Đức Phật chính là sự hoàn thiện hay giải thoát của con người trên cơ sở đánh thức, nuôi dưỡng và phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức của mỗi cá nhân. Do đó một môi trường tu học đáp ứng được mục tiêu trên cần phải có đủ Giới - Định - Tuệ và các điều kiện hỗ trợ cho việc phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức. Đạo Phật chú ý kiến tạo các môi trường giáo dục, khuyến khích sự phát triển giới đức, tâm đức, tuệ đức của cá nhân”.
Thời trung đại, nhìn chung, hoạt động giáo dục thời Trần được kết tinh và thể hiện sâu sắc ở thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với ba vị tổ Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang. Thông qua hình thức truyền thừa, hoạt động đào tạo tăng tài, khuyến hóa chúng sinh, hoằng dương Phật pháp của thiền phái Trúc Lâm sẽ cho thấy toàn cảnh bức tranh của nền giáo dục Phật giáo Đại Việt đương thời, căn bản đã đi trên lộ trình mà xưa kia đức Thế Tôn đã vạch ra.
Đặt trong tương quan giữa đời và đạo, mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền, trước hết cần khẳng định thái độ rành mạch của Trần Nhân Tông (1258 -1308) trong quan niệm và cách thức ứng xử trước cuộc đời, khi nào cần "hòa quang đồng trần" gắn bó với sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước, khi nào có thể chuyên tâm với kinh sách và rộng đường hoằng dương Phật pháp. Trên thực tế, có thể nhận diện về Trần Nhân Tông như một nhân vật lịch sử, một mẫu hình hoàng đế phương Đông gắn với vị thế thiền sư - nhà truyền giáo và tư cách thi nhân - người kiến tạo những giá trị văn hóa. Ở đây, trong phạm vi cụ thể hơn, trước hết chúng tôi định vị Trần Nhân Tông như một bậc thầy, một nhà giáo dục, một người có ý thức hoằng dương nền Phật giáo dân tộc...
Từ khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) nhường ngôi cho Anh Tông (1293), rồi xuất gia, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (1299), thống nhất các thiền phái Phật giáo, để thành Phật giáo nhất tông, tiếp theo là Pháp Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334) kế thừa mạng mạch của Thiền phái, thì cũng từ đó nhiều đạo tràng, nhiều giảng đường Phật học được Giáo hội Trúc Lâm tổ chức để giảng dạy tư tưởng giáo lý nhà Phật cho Tăng Ni và Phật tử như các chùa Siêu Loại, Vĩnh Nghiêm, Sùng Nghiêm, Báo Ân, Quỳnh Lâm, Yên Tử, Kỳ Lân viện… Tư tưởng giáo lý đó là: Diệu pháp Liên Hoa kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Truyền Đăng lục, Đại Tuệ ngữ lục, và các sách được soạn: Tham Thiền Chỉ Yếu; Kim Cương Trường Đà-la-ni Kinh Khoa Chú năm 1323, Pháp Sự Khoa Văn; Nhân Vương Hộ Quốc Nghi Quĩ năm 1328…). Thứ hai, kế thừa tư tưởng giáo dục, hoằng dương Phật giáo dân tộc của Điều Ngự Trần Nhân Tông và nền tảng học phong Đông A, bên cạnh các nguồn sách kinh điển và ngoại điển, Pháp Loa còn đặc biệt quan tâm biên soạn, viết lời niêm tụng, bình luận, giải thích và khắc in tác phẩm của các bậc sư thầy gần cận như Thượng Sĩ ngữ lục của Trần Tung, Thạch Thất Mị Ngữ, Thiền Lâm Thiết Chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông… Điều này cho thấy Pháp Loa thực sự có ý thức kết nối tinh thần đạo pháp với dân tộc, tôn trọng các nguyên tắc kinh điển gắn với khả năng sáng tạo phù hợp với điều kiện của dân chúng và hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ.
Những đạo tràng Giáo hội Trúc Lâm tổ chức góp phần đào tạo con người với những phẩm hạnh, nhân cách cao cả. Đức Phật Hoàng còn chống gậy du hoá khắp đất nước, khuyên nhân dân tu hành Thập thiện, xoá bỏ hủ tục mê tín dị đoan. Tức Ngài đã đem giáo lý từ bi của nhà Phật phổ biến rộng khắp đến tất cả mọi người dân Việt. Ngay tại triều đình, Ngài cũng khuyên các quan lại nên thực hành Thập thiện. Chính hào khí Đông A có được là nhờ tinh thần rộng mở của thời đại mà giáo dục Phật giáo thiền tông đã góp phần rất lớn trong việc hình thành đặc trưng tinh thần đó.
Với đệ tam tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254 -1334), đã soạn Chư Phẩm kinh và Công Văn tập… và được ngự bút phê vào Thích khoa giáo.
Nhận xét về vai trò văn hóa và chính trị cũng như hoạt động giáo dục của Phật giáo đời Trần, Nguyễn Lang viết: “Đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm là nhập thế: đạo Phật phụng sự cho đời sống: đời sống tâm linh cũng như đời sống xã hội. Hai phương diện ấy của đời sống con người cần được liên hệ với nhau và bổ túc cho nhau (…). Những tự viện trên núi tổ chức ẩn cư và kết hạ nhưng vẫn có liên hệ đến đời sống văn hóa, xã hội và chính trị của quốc gia (…). Nền giáo dục hồi đó còn mang tính chất tổng hợp tam giáo và không có tính cách từ chương. Kiến thức thực tế về đạo lý là căn bản. Văn chương và cú pháp là thứ yếu. Trong không khí học tập tự do và cởi mở ấy, triều đình đã đãi ngộ nhân tài và sĩ phu rất kính cẩn, cho nên người giỏi xuất hiện rất nhiều và sự học phát triển rất rộng”. Nói cách khác, nền giáo dục thời Trần đã góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đạo và đời, vương quyền và thần quyền, truyền giảng giáo lý và thực hành đạo lý, xây dựng được một nền Phật giáo phát triển nội sinh trong nền văn hóa dân tộc. Có thể coi mối quan hệ Đạo – Đời trong hoạt động giáo dục Phật giáo thời Trần chính là một nội dung trọng yếu và trở thành di sản tinh thần truyền thống của cả nền giáo dục Việt Nam dưới thời trung đại. (1)
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG HIỆN TẠI:
Con người thời nay dễ tham, dễ sân, dễ si đến mức không lường được. Đức Phật đã từng nói chính ba nọc độc tham sân si này đã nhấn chìm chúng sanh trong trầm luân sanh tử từ vô thủy kiếp đến nay, trôi lăn trong ba cõi sáu đường, thọ nhận biết bao là thống khổ. Chư Phật thị hiện ra nơi đời cũng vì để nhổ bật gốc rễ tam độc ra khỏi thân tâm của chúng sanh. Vậy mà càng ngày nhân loại càng lún sâu trong đó. Thật là đáng kinh sợ!
Có thể nói Giáo dục Phật giáo ra đời được coi như là vị cứu tinh của nhân loại, đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người đứng trước những cơn phẫn nộ của thiên nhiên mà nguyên nhân tạo ra nó không ai khác hơn ngoài chính con người. Quả báu, nhân duyên… thật sự là một kết quả tất yếu công bằng mà nền giáo dục Phật giáo từ lâu đã lên tiếng với nhân loại. Chúng ta chịu trách nhiệm về chính ý nghĩ, ngôn ngữ và hành vi của mình, không ai khác hơn cả. Điều này Phật đã dạy và chúng ta cũng đã có học hiểu, nhưng cho đến bây giờ việc thực hành vẫn chưa xong.
Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô.
Pháp Cú – 165
Do đó khắp nơi trên thế giới luôn xảy ra tai hoạ, nhân loại chịu nhiều cảnh thống khổ bi thương. Ở đây, lại một lần nữa chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính chất quan trọng trong việc hành trì nền giáo lý mà mình đã được học hiểu. Chỉ có như thế mới cứu nguy được bản thân và tha nhân đang chung sống trong một hành tinh ở vào thời mạt pháp.
Phương pháp giáo dục ngoài đời, cấp Tiểu học ông thầy chỉ dạy cho học trò thuộc lòng những bài văn, danh từ và tập viết đúng chữ, trúng câu, không cần tìm hiểu nghĩa lý sâu xa. Cấp Trung học cho học sinh học tổng quát hết các môn, nhưng chưa chú trọng thực hành. Đến cấp Đại học, tùy sinh viên chọn lấy một môn nào thích hợp với mình, học và thực tập hẳn môn ấy. Có thế, sinh viên sau khi ra trường, mới là người hữu dụng của quốc gia. Phương pháp dạy đạo cũng thế, tu sĩ mới vào chùa chỉ cần học thuộc lòng kinh chú để trì tụng thôi. Sau khi đã rành kinh chú tụng niệm, tu sĩ phải học khái quát hết các kinh điển quan trọng. Đến cuối cùng, tu sĩ phải chọn lấy một pháp môn nào trong kinh luận mà mình thích hợp để tu hành đến chỗ chứng quả. Được vậy, sự học đạo mới có ngày viên mãn.
Song khổ thay! Phật giáo Việt Nam hiện giờ, chỉ có 2 giai đoạn đầu mà không có giai đoạn cuối. Cho nên có nhiều Tăng Ni sau năm mười năm học đạo ở chùa, vẫn không biết mình đang tu pháp môn gì? Đó là chỗ bế tắc, khiến rất nhiều Tăng Ni đi giữa đường rồi lui sụt, hoặc đâm ra thụ hưởng.
Tu viện ra đời để khai thông chỗ bế tắc ấy. Tăng Ni sau khi đã hiểu khái quát Phật giáo, muốn chuyên tâm tu Thiền hay Tịnh thì vào hẳn Tu viện Thiền, Tịnh mà tu. Nơi đây sẽ khai thác triệt để phương pháp tu khiến Tăng Ni thấy rõ đường lối tu hành của mình cao siêu, thanh thoát để vui tiến không dừng, lại tạm đủ tiện nghi để khỏi bận tâm lo nghĩ về sự sống. Nhờ đó, Tăng Ni sẽ tiến mãi không lùi và ngoài sự tu không còn khởi nghĩ gì khác. Với chủ trương "Thiền giáo song hành" của Thiền viện rất phù hợp với lời của Tổ Khuê Phong nói "do tu Thiền mà hiểu được giáo, do học giáo mà tin được Thiền". Cho nên trong bốn năm tu học, các vị ấy cố gắng đừng bỏ sót thời khóa tu tập, cũng như những buổi học kinh. Nhất là quý vị dự thính, phải bền chí và cố gắng mới có thể trọn vẹn khóa học bốn năm. Tu học đủ bốn năm, Hòa thượng đoán quyết rằng người học sẽ được niềm tin vững chắc đối với chánh pháp Ðại Thừa và thấy mình có vinh hạnh mới được hấp thụ chánh pháp ấy.
Phong trào học Thiền, tu Thiền đang thịnh hành trên lãnh thổ Việt Nam. Khá nhiều tu sĩ và cư sĩ đang tu thiền và đã tu thiền. Song những người đã tu ấy có nhiều người bị cuồng loạn hoặc bệnh tật. Đó là lý do khiến nhiều người kinh sợ, cho rằng “Tu Thiền dễ điên”. Nhưng có biết đâu, có những người nói tu thiền đó, sự thật họ không có tu thiền gì hết. Vì chính họ chưa biết thiền là gì, huống là tu? Bởi không biết thiền, nên nghe ai dạy ngồi yên quán thế này, tưởng thế nọ, họ cho đó là dạy thiền. Những tệ hại của những người tu thiền đã xảy ra, đó là bởi tu mù luyện quáng gây nên.
Các thiền viện ra đời cố sửa đổi những sai lầm ấy và gầy dựng lại đường lối tu Thiền đúng là Thiền Tông Phật giáo. Chương trình giáo dục trong Tông môn chỉ giảng dạy kinh, luận, sử cho người nghe nhận hiểu để ứng dụng tu. Chủ yếu của Thiền Tông là giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Thế mà chúng tôi tu thiền lại nghe kinh học luận, có trái với chủ trương của Thiền Tông không?
Vì Phật giáo Việt Nam thừa kế gia bảo Thiền Tông mà đã không khéo giữ gìn nên bị mất gốc. Do đó các Thiền Viện mới chủ trương Thiền Giáo đồng hành, nghĩa là vừa tu theo Thiền Tông vừa học kinh luận, nếu không đem kinh luận của Phật, Tổ phối hợp chặt chẽ thì không sao tránh khỏi sự nghi ngờ lo sợ của đa số tu sĩ. Học Kinh để làm sáng tỏ cho sự tu Thiền, tu Thiền để hiểu rõ lời Phật dạy trong Kinh. Sự hỗ tương giữa Kinh và thiền đối với tu sĩ thật quá thiết yếu, bao nhiêu lời kinh là bao nhiêu ý thiền, kinh và thiền còn chỗ nào không tương ưng nhau. Học luận và sử nhằm củng cố niềm tin nơi tự thân, nhờ thấy biết được ngôn từ hành trạng của chư Tổ trên đường tu tập.
Chính vì Hòa thượng chúng tôi thấy chỉ có thiền Trúc Lâm Yên Tử là một đường lối tu thích ứng với hoàn cảnh hiện tại của xã hội. Đó là một lối tu rất là Việt Nam. Tại sao? Quí vị thấy ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi, ngài Vô Ngôn Thông, ngài Thảo Đường… truyền bá Thiền sang Việt Nam. Nhưng tới đời Trần, các ngài thu thái tinh hoa của ba vị trước, rồi kết hợp lại thành thiền Trúc Lâm Yên Tử. Mà thiền Trúc Lâm Yên Tử là thiền Việt Nam. Vì Tổ Trúc Lâm là người Việt Nam, không phải từ Trung Quốc tới, không phải từ Ấn Độ sang. Đó là người Việt Nam đứng ra tinh lọc những cái hay, những cái quí để giáo dục, để chỉ dạy lại cho người sau, người Việt Nam.
Như vậy, chúng ta không lấy đó làm cái mốc để chúng ta nhắm thì còn cái nào tốt hơn. Cho nên tôi phải dùng Trúc Lâm Yên Tử làm mục tiêu chúng ta nhắm để thực hiện theo tinh thần đó, ứng dụng tu và ứng dụng truyền bá để cho người Việt Nam được tự tín rằng trên đất nước Việt Nam vẫn có những người từng tu theo đạo Phật, từng tu theo Thiền tông, đã chứng ngộ, đã tự tại ra đi và đã thấy được chân lý, tiếp tục truyền nối mãi tới ngày nay không mất.
III. KẾT LUẬN
Giáo dục Phật đà là nền giáo dục đầy đủ tính nhân văn, xuyên suốt nhiều thời đại, dẫn đạo bằng tuệ giác xuất thế. Cái khó của các nhà giáo dục hiện tại là mang nặng tính tiếp cận xã hội mà không chuyển tải nổi ngọn tâm đăng, làm nhiệm vụ đưa chúng sanh tiến vào giác ngộ thật sự. Vì vậy phương pháp học trong tông môn là lắng thần để nghe, sau đó đem những tri thức vào những giờ tọa thiền để chiêm nghiệm. Xa hơn, bản thân người học cũng biết rõ là mình muốn trở thành một người giác ngộ chân chính, một tu sĩ theo đúng nghĩa. Chỗ cứu cánh của Thiền tông là khai thị cho chúng ta thấy rõ con người chân thật từ muôn kiếp. Đó chính là đỉnh cao của giáo dục tông môn.
Người học trong tông môn sẽ trả lời được ba câu hỏi mà phần mở đầu đã nêu: Học để tu và học Kinh luận sử để ứng dụng tu hành nhằm trở thành người giác ngộ chân chính. Khi tốt nghiệp, người học sẽ có đủ ba đức tánh:
1. Tự tin: Đức tự tin khiến con người không trốn tránh trách nhiệm, không ỷ lại kẻ khác, không hèn nhát trước mọi khó khăn.
2. Quả cảm: Nhờ tự tín người tu mới can đảm vượt mọi khó khăn, cương quyết quả cảm tiến lên trên con đường siêu nhân, phấn đấu chiến thắng ma quân. Nếu ứng dụng tinh thần quả cảm này vào xã hội thì có việc gì làm chẳng thành.
3. Cần cù: Có tự tín mới có nỗ lực tiến tu. Bất cứ làm một việc gì mà không tin mình làm được, chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở hoặc có làm cũng lừng chừng cầu may. Tin chắc việc này mình làm được, ngày đêm cần cù không dám lơi lỏng. Ở thế gian, nếu người có đức tự tín, chắc chắn mọi công tác sẽ được thành công. Tin tưởng khả năng mình, mới có siêng năng cố gắng trong mọi nhiệm vụ của mình. Thế nên có đức tự tín rồi mới có quả cảm và cần cù.
Ba đức tính này không chỉ cần thiết cho Tăng Ni lúc tu học mà còn là hành trang không thể thiếu cho các vị khi đi vào đời hóa độ chúng sanh.
Ngoài ra, nhờ thực tập ngồi thiền đúng thời khóa như trong chương trình giáo dục Tông môn quy định, chúng ta sẽ quân bình được cảm xúc, giảm thiểu căng thẳng do việc học hành chữ nghĩa thái quá. Việc thiền định thường xuyên đã kích thích hoạt động của tế bào não thùy trái mạnh mẽ hơn, từ đó tạo cho con người cảm giác vui vẻ, nhanh chóng vượt qua các trạng thái tâm lý tiêu cực để trở nên lạc quan. Nhờ thế, chúng ta đón nhận mọi thứ đến với mình một cách bình tĩnh và nhẹ nhàng. Thậm chí, chúng ta vẫn giữ được tâm bình thản khi phải đối mặt với nhiều điều khó khăn, bất như ý, những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra trong cuộc sống. Đó chính là lợi ích thiết thực mà thiền trong giáo dục Tông môn mang lại.
Trước thềm đại hội, chúng tôi xin được bộc bạch đôi điều cảm nghĩ thô thiển, chỉ mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc Tôn túc trong Giáo hội và nếu có thể nhận được sự đồng cảm chia sẻ của chư thiện hữu tri thức gần xa, với niềm tin và hy vọng chúng ta cùng chung vai góp sức đưa ngành Giáo dục Phật giáo Việt Nam đi lên, ngõ hầu thực hiện được di huấn của đấng Đạo sư, cứu giúp chúng sanh là đền ân chư Phật.
Kính chúc đại hội thành công tốt đẹp.
Nam Mô Thường hoan Hỷ Tạng Bồ - tát ma ha tát.
TT. THÍCH THÔNG THIỀN
Tham khảo:
- Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, HT Thích Thanh Từ.
- Giáo dục Phật giáo thời Lý Trần đồng hành cùng dân tộc, Pgs.ts. Nguyễn Hữu Sơn.
0 Comments
Add new comment