CÁCH NHÌN
Trong giáo lý nhà Phật có nói đến tám thứ khổ, trong đó sau nỗi khổ sinh lão bệnh tử, điều làm cho người đời bận tâm nhiều hơn cả có lẽ là những cuộc chia tay (Ái biệt ly khổ). Những cuộc chia tay nhiều khi mang mùi vị đắng cay tới mức khiến họ phải xếp nỗi buồn sinh ly ngay sau niềm đau tử biệt.
Hiện thực ấy được ghi lại bằng ngôn ngữ thi ca khá nhiều, như trường hợp của Nguyễn Ức. Về hành trạng của ông không rõ năm sinh, năm mất và quê quán ở đâu, chỉ biết dưới triều Trần Minh Tông ông từng làm quan ở viện Hàn Lâm, hiệu là Giản Trai, có tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập, còn để lại 20 bài thơ chữ Hán trong Việt Âm Thi Tập và Toàn Việt Thi Lục. Khi tiễn người đi phương Bắc, ông có làm bài thơ như sau:
都門回首樹蒼蒼
立馬頻斟勸客觴
一斷離情禁不得
津頭折柳又斜陽
Đô môn hồi thủ thụ thương thưong,
Lập mã tần châm khuyến khách thương.
Nhất đoạn ly tình câm bất đắc,
Tân đầu chiết liễu hựu tà dương.
Ngoái nhìn thành cổ phía xa xa,
Dừng ngựa tiễn người, rượu rót ra.
Kẻ ở người đi rơi nước mắt,
Bẻ liễu bên sông giữa nắng tà.
Trong bức tranh tiễn đưa ven sông này, chúng ta thấy có hình ảnh người đi đang ngồi trên lưng ngựa, bùi ngùi ngoái nhìn lại thành cổ khuất dưới rừng cây xanh ngắt phía xa xa… Nguyễn Ức thì dừng ngựa rót rượu ly bôi; có nước mắt rơi của người đi lẫn kẻ ở lại. Ông bẻ cành liễu để tặng bạn giữa nắng chiều vàng nhạt. Như thế rõ ràng ở đây là có hai người khổ, người đi lẫn kẻ ở…
Những người trong cửa Thiền cũng có lúc phải chia tay và cũng đều cảm xúc lúc chia tay, nhưng do công phu hàm dưỡng, quán chiếu nên trong giây phút biệt ly họ không bi luỵ sướt mướt như thế nhân, như thiền sư Vô Muộn trong bài Mộ Xuân tống nhân:
折柳亭邊手重携
江烟澹澹草萋萋
杜鵑不顧離人意
更向落花枝上啼
Chiết liễu đình biên thủ trụng huề,
Giang yên đạm đạm thảo thê thê
Đỗ quyên bất cố ly nhân ý
Cánh hướng lạc hoa chi thượng đề.
Giơ tay bẻ liễu ven đình,
Nhạt nhòa khói sóng, rập rờn cỏ xanh.
Đỗ quyên kêu rộn dưới cành,
Hoa dương tơi tả, nào sanh ý gì!
Vào một buổi chiều xuân, thiền sư đứng ven đình giơ tay lần thứ hai mà chưa nở bẻ cành dương liễu tặng người đi. Trong lúc giơ tay ấy, Ngài đưa mắt nhìn ra bờ sông đầy cỏ xanh xa tít và khói sóng nhàn nhạt, đồng thời tai nghe tiếng chim đỗ quyên rộn rã dưới gốc dương tả tơi hoa rụng, nhưng nơi tâm thì vô tâm như chim quốc kia cứ kêu như tiễn xuân mà chẳng cần biết tới tình người ly biệt.
Thế là cùng chung một cảnh ngộ chia tay mà cách hành xử của Đời và Đạo lại không giống nhau. Một bên thì rơi lệ dầm dề, đau khổ xót xa, một bên thì an nhiên tĩnh tại. Vì sao bên đạo được như thế? Bởi vì chuyện đi hay ở, tan hay hợp đều là chuyện nhân duyên, đối với thiền sư tâm an trú trong sát na hiện tiền thì đó là việc bình thường, việc đương nhiên vốn phải có giữa cuộc đời này. Đây là cách nhìn của người hiền trí. Điều này cho thấy hạnh phúc hay khổ đau đều do chính nơi cách nhìn về cuộc đời của mỗi người. Nếu bạn muốn đong đầy cảm xúc để khổ đau thì cứ sống như anh chàng Nguyễn Ức trên đây, còn muốn được thản nhiên tự tại thì nên nhìn đời như thiền sư Vô Muộn.
0 Comments
Add new comment