CÁC BẬC TIỀN BỐI

Posted by Thông Thiền on Wed, 15/11/2023 05:15

TỔ KHÁNH ANH

Các bậc tiền bối có công phát triển giáo dục Phật học

tại miền Nam Việt Nam trong thời cận đại.

Tham luận hội thảo: Phật học Việt nam thời hiện đại: Bản chất, hội nhập và phát triển

Trong thời kỳ cận đại, những tấm gương sáng chói của phong trào phát triển Giáo dục Phật học trong đó các bậc tiền bối thạc đức có học lực, có tài cao, có chí lớn, có đức tánh hiền hòa điềm đạm, sống bình dị thân thương, nhiệt tình yêu nước mến đạo, linh động hòa hợp dung thông cho đại sự và nhờ đó Phật Giáo Việt Nam từ đấy trở nên sáng ngời khắp bầu trời miền Nam.


Phật giáo Việt Nam bắt đấu chấn hưng từ những năm 1920. Trong những thập niên sau đó, 1930, 1940, chỉ có những trường gia giáo, trường Hương của những vị tôn túc cùng cư sĩ tiên khởi Chấn hưng Phật giáo Việt Nam và chỉ mới nói tới mục tiêu cao nhất là cao đẳng Phật học cho tu sĩ Phật giáo.

Trước năm 1964, Sài Gòn có trường cao đẳng Phật học với tên Phật học Đường Nam Việt thuộc chùa Ấn Quang.

 Sau cuộc chính biến 1963 và sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chủ trương đào tạo nhân sự và đưa Phật giáo vào cuộc sống thường nhật được Giáo hội xúc tiến qua việc xây dựng một cơ sở giáo dục bậc đại học là Đại học Vạn Hạnh, làm sống dậy lòng tin cho tuổi trẻ... với châm ngôn Duy Tuệ Thị Nghiệp, tức là mọi hoạt động của cơ sở giáo dục này cốt để phát triển trí tuệ. Viện đại học chọn mang tên thiền sư Vạn Hạnh, vị danh tăng Việt Nam thời nhà Lý

Bài viết dựa trên cơ sở Học viện đào tạo ngành Phật học như một ngành khoa học về Phật giáo Đại thừa, chứ không đào tạo các giáo sĩ làm công tác truyền đạo như các Chủng viện của Thiên chúa giáo cho nên lược bớt những mục như truyền giới, hoằng pháp… Chúng tôi sắp xếp tiểu sử chư tôn đức thứ tự theo niên cao lạp trưởng và chỉ khuôn trong thời gian cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX..

Chúng ta cùng nhau xem qua chân dung các bậc tiền bối có công phát triển giáo dục Phật học tại miền Nam Việt Nam trong thời cận đại.

  1. Hòa thượng Khánh Hòa (1877 - 1947)

Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Ngài sinh trong một gia đình trung lưu, có nề nếp Nho học, từ nhỏ đã được tiếng thông minh và nết hạnh.

Năm Ất Mùi (1895), khi 19 tuổi, Ngài đến chùa Long Phước, quận Ba Tri, xin xuất gia học đạo. Sau đó đến tham học tại chùa Kim Cang, tỉnh Tân An, nơi đây được Hòa thượng Long Triều trực tiếp giảng dạy. Thời gian này Ngài rất chăm chỉ và năng nổ trong việc học đạo, nên nghe đâu có bậc thạc đức thì Ngài luôn tìm đến cầu học, không ngại gian khó, chẳng nài xa cách. Nhờ tinh thần tiến thủ đó mà Ngài đi đến đâu cũng đều được các bậc trưởng thượng quý mến.

Năm Canh Thân (1920), Ngài mở trường gia giáo để đào tạo Tăng tài hầu đảm nhiệm trọng trách hoằng dương chánh pháp, dìu dắt người sau. Bên cạnh đó Ngài cần mẫn dịch Kinh, Luật, Luận ra chữ quốc ngữ để phổ cập được trong mọi tầng lớp quần chúng.

Năm 1928, Ngài cùng các vị Thiện Chiếu, Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lập Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn (Cầu Muối). Cùng năm này, chư Tôn đức tỉnh Bình Định mở trường hạ tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn), đã cung thỉnh Ngài làm Pháp sư chủ giảng suốt 3 tháng tại đây.

Để đẩy mạnh việc truyền bá Phật pháp, Ngài cùng các Hòa thượng khác cho xuất bản tập san Phật Học bằng chữ quốc ngữ tên là Pháp Âm. Số đầu tiên ra ngày 13.8.1929. Sau đó là tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên ra đời năm 1930 cũng bằng chữ quốc ngữ nhưng có nội dung tiến bộ hơn, nhắm vào hàng cư sĩ trí thức và Tăng sĩ trẻ. Không lâu sau, nhiều nội ngoại chướng dồn dập, hai tập san đều ngưng hoạt động.

Năm Tân Mùi (1931), Ngài cùng nhiều vị Tôn đức và các cư sĩ học giả, thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đặt Hội quán tại chùa Linh Sơn Sài Gòn, sau đó cho xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Ngài được cử làm Đệ nhất Phó Hội trưởng kiêm Chủ nhiệm báo Từ Bi Âm. Ngài đã cổ động hàng cư sĩ Phật tử Trà Vinh, thỉnh và hiến cúng Tam Tạng Kinh điển cho hội để có tài liệu nghiên cứu và diễn dịch.

Năm Quý Dậu (1933), Ngài cùng các Tổ Huệ Quang, Pháp Hải, Khánh Anh...thành lập Liên Đoàn Phật Học Xã nhằm tiếp tục con đường đào tạo Tăng tài. Tổ chức này có hình thức di động không trú xứ, luân phiên mỗi chùa 3 tháng phải chu toàn, đài thọ các mặt hoạt động của Liên Đoàn, sau đó lại đến chùa khác. Tổ chức này ra đời bằng nghi thức khai Gia Giáo, bắt đầu từ chùa Từ Hòa (chùa Tổ Huệ Quang) thuộc làng Long Hòa, huyện Tiểu Cần; rồi đến khai giảng tại chùa Thiên Phước, quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, sau đó đến chùa Viên Giác, tỉnh Bến Tre. Nhưng công việc đang hanh thông giữa chừng thì lại gặp chướng duyên, xem như gãy đổ hoàn toàn (năm 1934).

Năm Giáp Tuất (1934), Ngài lại cùng các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải...và các cư sĩ tỉnh Trà Vinh thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học do Ngài làm Pháp sư. Ngài cho xuất bản tạp chí Duy Tâm và thỉnh Đại Tạng, Tục Tạng để làm tài liệu nghiên cứu và dịch giảng. Bên cạnh đó Ngài còn kiến tạo Phật Học Đường và khóa đầu tiên được khai giảng năm Ất Hợi (1935) với số lượng học Tăng ba mươi vị. Trong số đó có các Ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ...Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và tạp chí Duy Tâm tồn tại cho đến khi chiến tranh xảy ra năm 1945.

Thời gian sau, do sức khoẻ có phần suy giảm, Ngài tạm thời lui về chùa Vĩnh Bửu, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre để tịnh dưỡng chuyên tu. nơi đây Ngài lại cho mở Ni trường Phật Học để chuyên chú cho Ni giới. Các Ni Sư tốt nghiệp trường này có Diệu Ninh (Thường gọi là Ni Sư Vĩnh Bửu sau là Quản lý trụ sở Ni bộ chùa Từ Nghiêm Chợ Lớn).

Năm ấy, Ngài viên tịch vào ngày 19 tháng 6 năm Đinh Hợi (1947), tại chùa Tuyên Linh, hưởng thọ 70 tuổi đời, 40 tuổi đạo.

  1. Hoà Thượng Thích Khánh Anh   (1895- 1961)

Hoà thượng họ Võ tên Hóa, hiệu Khánh Anh sanh năm Ất Tỵ (1895), tại xã Phổ Nhì, Tổng Lại Đức, Huyện Mô Đức, Tỉnh Quảng Ngãi (Trung phần Việt Nam) Hoà thượng theo đòi Nho học, từ nhỏ đã tỏ ra một bậc xuất sắc thời ấy.

Năm 1916, vì chán cảnh thế phù hoa, cuộc đời vô thường giả tạm, Ngài quy y thọ giới nơi Sư cụ Chùa Cảnh Tiên với Pháp danh Chơn Húy và nhập chúng làm đạo tu ở Chùa Quang Lộc, tỉnh Quãng Ngãi năm 1917. Ngài thọ giới Sa di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ kheo, Bồ tát với Pháp hiệu là Khánh Anh.

Năm 1927, Ngài vào Nam dạy học tại trường Gia Giáo Chùa Giác Hoa, Tỉnh Bạc Liêu và năm 1931 Hoà thượng về Trụ trì Chùa Long An (Đồng Đế) Quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Ở nơi đây Hoà thượng có rất nhiều Tăng đồ, tín đồ đến cầu học.

Năm 1932, Ngài nhận chức Pháp sư giảng dạy cho Liên đoàn học xã tại Chùa Thiên Phước, Trà Ôn ba tháng, Chùa Rạch Miễu ở Mỹ tho ba tháng.

Năm 1935, Ngài nhận chức Đốc giáo tại Phật học đường Lưỡng Xuyên (Trà Vinh) hợp tác với quí Hoà thượng Tuyên Linh (Lê Khánh Hoà) Hòa thượng Huệ Quang (cố Pháp chủ G.H.T.G.N.V) để xây dựng cơ quan đào tạo Tăng tài hầu truyền trì Đạo Pháp tại miền Nam; và Hòa thượng bắt đầu viết nhiều bài cho báo Phật giáo, trong đó có báo Duy tâm Phật học để cổ xúy việc chấn hưng phong trào Phật học nước nhà hầu kịp các nước Phật giáo bạn như Trung Hoa, Nhật Bản v.v…

Năm 1940, Ngài làm Pháp sư dạy trường hương Chùa Thiên Phước ở Tân Hương (Tân An) ba tháng.

Năm 1941 Ngài đến dạy trường Hương Chùa Linh Phong Tân Hiệp.

Năm 1942, Hoà thượng về trụ trì Chùa Phước Hậu, Quận Trà Ôn (Cần Thơ) mở những lớp Phật pháp cho Phật học cư sĩ, cho đến năm 1945 Hoà thượng đến dạy Tăng, Ni tại Chùa Long Hòa Tiểu Cần (Trà vinh).

Năm 1946, Hoà thượng nhập thất tại Chùa Phước Hậu (Trà Ôn), để nghiên cứu Tam Tạng Kinh, soạn thảo, phiên dịch rất nhiều Kinh sách, đã được ấn hành mãi cho đến năm nay vẫn còn bản thảo.

Đầu năm 1955, Hội Phật học Nam Việt thỉnh Hòa thượng vào Ban chứng minh đạo sư.

Ngày mồng 1 tháng 3 Đinh Dậu (31-3-1957) toàn thể đại hội Tăng, Ni và Phật tử miền Nam tại Chùa Ấn Quang suy tôn Hòa thượng lên ngôi pháp chủ để lãnh đạo tinh thần Phật giáo miền Nam.

Cũng tại Chùa Ấn Quang chợ lớn, một Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc kỳ II, ngày 10 tháng 9 năm 1959, toàn thể hội nghị đã long trọng suy tôn Hòa thượng lên ngôi Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc, để cầm cương lãnh vận mệnh Phật giáo Việt Nam.

Từ ngày lên ngôi Thượng thủ kiêm Pháp chủ, Hòa thượng vẫn thường lưu trú ở Chùa Ấn Quang, để đôn đốc Phật sự và tiếp tục phiên dịch, trước tác, các bản thảo bây giờ còn chưa viết hết. Hòa thượng luôn luôn tinh tấn tu trì, không giờ rãnh nào quên câu niệm Phật để cầu sanh Tây phương.

Tưởng rằng tuổi thọ còn dài, chúng tôi được tin Hòa thượng viên tịch hồi 4 giờ chiều ngày 30 tháng giêng Tân Sửu (16/ 4/ 1961) tại Chùa Phước Hậu sau khi viếng Chùa cũ (Chùa Long An, Đồng Đế, Trà Ôn) trở về; trước giờ thị tịch, Ngài cho gọi các đệ tử đến dặn dò sự tu học, hành đạo và khuyên bảo rồi niệm Phật về cõi Tịnh.

Tác phẩm

  • Quy Ngươn trực chỉ
  • Khánh Anh Văn Sao
  1. Hòa thượng Hành Trụ (1904-1984)

Hòa thượng Pháp danh Thị An, Pháp tự Hành Trụ, Pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm tế Chúc Thánh (1) đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất gia năm 12 tuổi ở chùa làng. Đến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ Túc giới và giữ chức thư ký trong chùa.

 

 

 

 

 

Năm 1936, Ngài được mời làm Giáo thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật học tổ chức tại chùa Long Phước ở Vĩnh Long. Sau đó, Ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên với học tăng cả ba miền tham dự, do Quốc sư Phước Huệ làm Pháp Chủ giảng dạy.

Năm 1940, vì bệnh trầm trọng, Ngài phải trở vào Nam điều trị, và ở lại giảng dạy tại Ni trường chùa Kim Sơn ở Phú Nhận.

Năm 1942, Ngài được Tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.

Năm 1945, Ngài được Hòa thượng Vạn An mời về làm Giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân tỉnh Sa Đéc. Trong thời gian ấy, Ngài làm Đệ nhất Yết Ma trong Đại Giới Đàn chùa An Phước, Châu Đốc.

Năm 1946, Ngài với ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài Gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già, hiện nay là chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về học. Đây là Phật học Đường đầu tiên ở đất Sài Gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học viện sau này phát triển.

Năm 1947, Ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để chuyển Chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học dành cho Ni chúng. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và Tăng Ni khắp nơi về học rất đông, góp sức phần lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại đất Sài Gòn bấy giờ. Ngài đảm nhiệm Giám đốc Phật học đường Giác Nguyên và Hóa Chủ Phật học Ni trường Tăng Già.

Năm 1948, Ngài mở Đại Giới Đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni thọ trì tu học. Sau Ngài được đề cử làm Trưởng ban Nghi lễ của Giáo hội Tăng già Nam Việt vào năm 1951, làm chứng minh Đạo sư Hội Phật học Nam Việt tại chùa Xá Lợi Sài Gòn cho đến cuối đời (1956 - 1984), và làm Trưởng đoàn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật giáo Thế Giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.

 Năm 1963, Ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác ở Gia Định do Ngài làm Giám đốc kiêm Trụ trì. Sau đó Ngài về Trụ trì thêm chùa Đông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa An cư Kiết hạ. Năm 1967 - 1969, Ngài làm Giới sư các Đại Giới đàn Hải Đức ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang) và Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm (Sài Gòn).

 Năm 1975, 1977 - 1980, liên tiếp Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại Giới đàn tại chùa Ấn Quang do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử toàn quốc.

Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh, phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật. Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984), huyễn thân Ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài trụ thế 80 năm, được 59 hạ lạp.

Tác phẩm

- Sa Di Luật Giải. - Qui Sơn Cảnh Sách. - Tứ Phần Giới Bổn Như Thích. - Phạm Võng Bồ Tát Giới. - Kinh A Di Đà Sớ Sao. - Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên. - Kinh Hiền Nhân. - Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn. - Tỳ Kheo Giới Kinh. - Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn. - Long Thơ Tịnh Độ. - Sơ Đẳng Phật học Giáo Khoa Thư. - Nghi Thức Lễ Sám. - Kinh Thi Ca La Việt. - Sự Tích Phật Giáng Thế.

 

  1. Hòa Thượng Thích Thiện Hòa (1907-1974)

Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn.

Cũng năm mười lăm tuổi, Ngài phát tâm mộ đạo, tìm đến chùa Long-Triều trong lòng để quy y thọ giới với Tổ Bửu-Sơn và được pháp danh là Tâm Lợi, hiệu Thiện-Hòa.

Năm lên 28 tuổi, Bà Nội từ trần, thế là hiếu nghĩa đã vẹn toàn, Ngài quyết chí xuất gia. Sắp đặt việc gia đình xong Ngài đến yết kiến Tổ Bửu-Sơn xin xuất gia. Tổ giới thiệu Ngài đến Tổ Khánh-Hòa hiện là Giám-Đốc Trường Phật-Học Lưỡng-Xuyên Trà-Vinh. Lễ xuất gia của Ngài được tổ chức vào Rằm tháng Tư năm Ất-Hợi (1935) tại trường Phật-Học Lưỡng-Xuyên Trà-Vinh

Tuy mới xuất gia nhưng phong cách đã vượt chúng bạn, nên tất cả đều đồng ý cử Ngài làm Chánh-Trị-Sự của Trường Nhờ sự chăm chỉ học hành, tinh tấn tu tập, giới luật trang nghiêm và tận tâm phục vụ chúng Tăng nên được Ban Giám Đốc nhà trường yêu mến ngợi khen, và toàn chúng đều quý kính Hòa Thượng như người anh cả.

Đến năm 1949, Hòa-Thượng hợp tác với Sư Cụ Tố-Liên thành lập Giáo-Hội Tăng Ni Chỉnh-Lý (tiền thân Giáo Hội Tăng Già Toàn-Quốc) và mở Phật-Học-Đường đào tạo Tăng Ni tại chùa Quán-Sứ Hà Nội. Nơi đây, ngoài chức Giám-Trường, Hòa-Thượng còn trợ bút cho Tạp-Chí Phương-Tiện và Bồ-Đề Tân-Văn.

Tóm lại, Hòa-Thượng tham học ở Trung chín năm (1936-1945), ra Bắc năm năm (1945-1950) là 14 năm, mà chỉ một lần đi một lần về.

Sau khi về Sài Gòn, Hòa-Thượng dừng lại ở chùa Sùng-Đức, nơi đây là chỗ hợp nhứt hai Phật-Học-Đường Liên-Hải và Mai-Sơn mà Hòa-Thượng đã hợp tác với quý Thượng-Tọa ở đây thành lập một Ban Giám-Đốc của Phật-Học-Đường Nam-Việt, Hòa-Thượng được cử làm Giám-Đốc. Sang năm 1951, Thượng-Tọa Thích-Trí-Hữu cúng cho Hòa-Thượng ngôi chùa lá nhỏ hiệu là Ứng-Quang nằm bên đường Lorgeril (Sư Vạn-Hạnh) gần ngã ba Vườn Lài. Hòa Thượng cho sửa chùa nầy thành trường học để hiệu là Phật-Học-Đường Nam-Việt chùa Ấn Quang và khóa đầu tiên được khai giảng vào mùa An-Cư năm Tân-Mão (1951), quy tụ được Tăng chúng cả ba trường trên và các nơi lần lượt đến tu học.

Sau Phật-Học-Đường Nam-Việt là Phật-Học-Viện Giác-Sanh năm 1960, Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm năm 1964 đều do Hòa-Thượng sáng lập. Đặc biệt của Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm là từ một bãi tha ma hoang vắng của An-Dưỡng Địa biến thành trường Trung-Học chuyên khoa rồi tiến lên Viện Cao-Đẳng Phật Học. Mặc dù tuổi già sức yếu, Hòa-Thượng vẫn giữ chức Giám Luật cho trường nầy đến ngày theo Phật.

Đi song song với trường Tăng, Hòa-Thượng còn làm Giám Đốc Phật-Học Ni-Trường Từ-Nghiêm, sau dời về chùa Dược-Sư là Phật-Học Ni-Trường Dược-Sư, do Hội Phụ Nữ Phật-Tử hiến cúng. Ở đây cũng đào tạo thành đạt một số Ni tài đáng kể, hiện đảm đang Phật-Sự ở nhiều nơi.

Hòa-Thượng đã giảng dạy Giáo-lý nhiều nơi cho các Hội-Đoàn Phật-Tử và các khóa huấn luyện ngay từ khi còn đi học, tất cả đều quý mến phát Đại Bồ-Đề-Tâm. Về già, Ngài ít giảng kinh thuyết pháp, nhưng nếu ai có phước duyên được gặp Ngài hoặc nghe danh hiệu Ngài đều ngưỡng mộ phát lòng Bồ-Đề và cảm thấy bớt khổ. Do đó, nhiều Thượng-Tọa ngoài nước cũng cho đệ tử hướng về Tác phẩm

  1. Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917 – 2014)

Hòa thượng sinh tại làng Mỹ Luông, quận Cái Tàu Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Năm 1945, Hòa thượng đã cùng với Hòa thượng Thích Thiện Hoa, thành lập Phật học đường Phật Quang, Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long), do Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm Giám đốc, Hòa thượng làm Đốc giáo kiêm Giáo thọ.

Năm 1948, Hòa thượng về Sài gòn và thành lập Phật học đường Liên Hải, tại chùa Vạn Phuớc, xã Bình Trị Đông, huyện Long Hưng Thượng, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh), do Hòa thượng làm Giám đốc, Hòa thượng Thích Huyền Dung làm Đốc giáo.

Năm 1951, Hòa thượng cùng Hòa thượng Thích Thiện Hòa sáp nhập 03 Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt, trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang, quận 10, tỉnh Chợ Lớn (nay là quận 10, Tp. Hồ Chí Minh). Từ năm 1951 – 1956, Hòa thượng tham gia Ban Giảng huấn và giảng dạy cho Lớp Cao Đẳng Phật học.

Tác phẩm

1. Kinh Pháp Hoa: 08 quyển

2. Kinh Hoa Nghiêm: 08 quyển

3. Kính Đại Bát Niết Bàn: 02 quyển

4. Kinh Đại Bát Nhã: 03 quyển

5. Kinh Đại Bảo Tích+ Đại Tập: 12 quyển

6. Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện: 01 quyển

7. Kinh Địa Tạng bổn nguyện: 01 quyển

8. Kinh Tam Bảo: 01 quyển

9. Tỳ kheo giới bổn: 01 quyển

10. Bồ Tát giới bổn: 01 quyển

11. Kinh Pháp Hoa cương yếu: Tóm tắt

12. Kinh Pháp Hoa thông nghĩa: Tóm tắt

13. Cực Lạc liên hữu tập: 01 quyển

14. Đường về Cực Lạc: Trọn bộ

15. Ngộ tánh luận: 01 quyển

6. Hòa thượng Thích Thiện Tường 

 (1917 - 1984)

Hòa thượng pháp danh là Thanh Giới, tự Chơn Như, hiệu Thiện Tường, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41. Ngài thế danh Ngô Văn Phải, sinh năm 1917 tại làng Bình Xuân, tổng Hòa Lạc, tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang).

Đến năm 19 tuổi (Đinh Sửu - 1937), nhân ngày Phật Đản, Ngài tới chùa Long Quang, làng Bình Thạnh làm lễ thế phát quy y với Hòa thượng trụ trì. Trải qua bốn năm tinh tấn chuyên cần tu học, Ngài vẫn chưa thỏa mãn được việc thâm nhập kinh tạng của mình, Ngài bèn khăn gói y bát nâu sòng lên Sài Gòn tá túc ở chùa Linh Sơn công quả và tham học. Nơi đây, hạnh duyên được gặp Hòa thượng Lê Phước Chí, Ngài cầu pháp thọ học sớm khuya chuyên cần và được truyền trao nhiều pháp yếu.

Năm 1941, Ngài được thọ tam đàn Cụ Túc giới tại chùa Xuân Quang ở thị xã Phan Thiết.

Năm 1943, Ngài cùng sư huynh là Hòa thượng Thích Thới An cùng đi nhiều nơi tham học Phật pháp. Hễ nghe đâu có bậc cao đức thì Ngài tìm đến xin thụ giáo. Do đó Ngài đã gặp không ít bậc Thầy lỗi lạc như Hòa thượng Hòa Bình ở chùa Kim Huê, Hòa thượng Bửu Đạt ở chùa Linh Sơn - Sa Đéc...

Năm 1944, Ngài về làm trú trì chùa Long An ở Sa Đéc, tại đây diễn ra cuộc hội ngộ đáng nhớ giữa Ngài, Hòa thượng Thới An, Hòa thượng Khánh Phước với một Tăng khách đặc biệt là Hòa thượng Hành Trụ, nhân một hôm Hòa thượng dừng bước trên đường hoằng pháp. Cảm mến đạo hạnh và kiến thức quảng bác của Hòa thượng Hành Trụ, ba vị đã cung thỉnh Hòa thượng lưu lại chùa Long An để mở Phật Học Đường nuôi dạy Tăng chúng tu học, tôn Hòa thượng làm Huynh trưởng kiêm Hóa chủ ngôi chùa này. Bốn vị đồng phát nguyện kết nghĩa làm Tăng hữu trọn đời kề vai sát cánh bên nhau trên con đường hoằng dương chánh pháp, tiếp Tăng độ chúng.

Năm 1946, tiếp nối phong trào chấn hưng Phật giáo sau khi chiến tranh chống Pháp tạm lắng, cả bốn vị đều rời miền Tây lên Sài Gòn thành lập ngôi Tam Bảo ở vùng Khánh Hội đặt tên là chùa Tăng Già để qui tụ Tăng chúng và mở trường đào tạo. Đây cũng là Phật học đường đầu tiên ở Sài Gòn.

Năm 1947, nhận thấy Tăng chúng và Ni chúng về học rất đông, các vị lại lập nên ngôi già lam thứ hai ở gần đấy là chùa Giác Nguyên để tiếp độ chúng Tăng, còn chùa Tăng Già để cho Ni chúng thọ học. Về sau, chùa Tăng Già được đổi tên là chùa Kim Liên.

Năm 1950, cảm mến ân đức và đạo hạnh của Ngài, Hội Vạn Thọ hiến cúng cho Ngài ngôi chùa Vạn Thọ ở vùng Tân Định. Ngài về đấy an trụ và tiếp Tăng độ chúng. Từ đó trải hơn 10 năm sau, Ngài miệt mài với công việc hoằng dương chánh pháp và có công gầy dựng trùng tu lại các ngôi già lam khác như: Tăng Già, Giác Nguyên, Vạn Thọ, Thiền Lâm, Giác Minh, Quan Âm, Thiên Phước, Hội Tôn...

Năm 1960, Ngài trở về làm Hóa chủ Tổ đình Giác Nguyên nhiếp độ tứ chúng thay ba vị huynh đệ nhận trú xứ khác để hoằng dương Phật pháp.

Năm 1969, Ngài làm Hóa chủ kiêm Giám đốc Phật học viện Tổ đình Giác Nguyên.

Những năm sau đó, vì tuổi già sức yếu, Ngài chỉ an trú nơi Tổ đình Giác Nguyên, chuyên tâm trực tiếp dạy bảo đồ chúng, khuyến giáo tín đồ. Ngài còn dành thì giờ dịch kinh, và lấy việc vãng sanh Tịnh độ làm yếu chỉ. Cũng như những bậc Cao đức khác, biết trước ngày giờ trở về cõi Phật, Ngài khuyên chúng đệ tử cố gắng tu trì, xả thân vì đạo pháp, noi gương đạo bạn giữa Ngài và ba vị pháp hữu thực hiện lục hòa đoàn kết trong Tăng giới. Vào ngày 23 tháng 8 năm Giáp Tý, tức 18 tháng 9 năm 1984, Ngài xả nhục thân thâu thần về cõi Phật, hưởng thọ 68 tuổi đời với 46 năm hành đạo.

 

 
  1. Hòa thượng Thích Thiện Hoa (1918 – 1973)

Hòa Thượng húy là Trần Thiện Hoa, pháp danh là Thiện Hoa, hiệu là Hoàn Tuyên, sanh ngày 07 tháng 08 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Qui (sau đổi tên là An Phú Tân), huyện Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (sau đổi tên là tỉnh Trà Vinh). 

Sau khi thân phụ quá cố, Hòa Thượng theo thân mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ làm lễ kỳ siêu bảy tuần thất cho cha, sau đó Hòa Thượng quyết tâm xin mẹ cho ở lại chùa Phước Hậu xuất gia và được cụ bà đồng ý, năm ấy Ngài mới được 7 tuổi. Tiếp đến Hòa Thượng được gởi tới chùa Đông Phước, làng Đông Thành, huyện Cái Vồn (hiện giờ là huyện Bình Minh), tỉnh Cần Thơ theo tu học với Tổ Khánh Anh và được Tổ đặt cho pháp hiệu là Hoàn Tuyên.

Vào năm 1945, Hòa Thượng hợp tác cùng Hòa Thượng Trí Tịnh khai giảng Phật Học Đường Phật Quang tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, là cơ sở của Thượng Tọa Hoàn Tâm lãnh đạo. Số Tăng sinh đến tu học trên 30 vị. Đến năm 29 tuổi, Hòa Thượng Thiện Hoa mới thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát tại Giới Đàn chùa Kim Huê, Sa Đéc. Năm 1946 và 1947, thấy tình cảnh chiến tranh của đất nước càng ngày càng tăng và thấy Tăng sĩ một phần đã cởi áo Cà Sa mặc áo chiến bào, Hòa Thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sái Gòn.

Lúc bấy giờ Phật Học Đường Phật Quang chỉ còn lại một mình Hòa Thượng Thiện Hoa gánh vác tất cả mọi Phật sự, vì thế Phật Học Đường này đã khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một mình Hòa Thượng vừa dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.

Đầu mùa Xuân năm 1953, vào ngày mùng 8 tháng Giêng Âm Lịch, Hòa Thượng cùng hàng đệ tử mang hành lý lên đường đi Sài Gòn đến Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang (trong số đó có thầy Thích Thanh Từ). Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quý Hòa Thượng đã đồng tình đề cử Hòa Thượng Thiện Hoa giữ chức vụ Trưởng Ban Giáo Dục kiêm Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và luôn cả chức Đốc Giáo Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang, Sài Gòn.

Với trách nhiệm Đốc Giáo Phật Học Đường Nam Việt, Hòa Thượng đã tận tâm giảng dạy cho hai cấp nơi trường này: một lớp Cao Đẳng và một lớp Trung Đẳng. Đồng thời Hòa Thượng cũng dạy lớp Trung Đẳng Ni Chúng tại chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật Học Ni Trường Dược Sư.

Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa Thượng đã khuyến khích mở trường Phật Học ở các tỉnh như: Trường Phật Học tại chùa Bình An, Long Xuyên (1956), Trường Phước Hòa ở Vĩnh Bình, Trường Giác Sanh ở Phú Thọ, Chợ Lớn, Trường Phật Học ở Biên Hòa và Trường Phật Ân ở Mỹ Tho v.v...  Hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời dù gián tiếp hay trực tiếp đều chịu ân huệ giáo dục ít nhiều của Hòa Thượng.

e) Đến năm 1956, Hòa Thượng đầu tiên thực hiện những dự án sau đây do Hòa Thượng chủ trương:

* Hợp tác với Hòa Thượng Nhất Hạnh xuất bản nguyệt san “Phật Giáo Việt Nam”.

* Lập nên nhà xuất bản Phật Giáo lấy tên là “Hương Đạo”.

* Chủ trương một “Phật Học Tùng Thư” để phổ biến những tác phẩm của Hòa Thượng.

Sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tý, nhằm ngày 23 tháng Giêng năm 1973, Hòa Thượng đã an lành viên tịch, thọ 55 tuổi đời và 26 tuổi hạ.

Tác phẩm

Trước Tác:

– Phật Học Phổ Thông (12 quyển) cũng gọi là Cây Thang Giáo Lý.

– Bản Đồ Tu Phật (10 quyển)

– Bài Học Ngàn Vàng (8 quyển)

– Nghi Thức Tụng Niệm.

– Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm.

– Lược Giải Kinh Viên Giác.

– Phật Học Giáo Khoa các trường Bồ Đề.

– Giáo Lý dạy Gia Đình Phật Tử.

– 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo.

– Phật Giáo Việt Nam Ngày Nay.

– Tám quyển sách quý gồm có: Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân Quả Luân Hồi, Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Hòa Bình Trong Đạo Phật, và Năm Yếu Tố Hòa Bình.

– Tạp Luận.

– Sự Tích, v. v...

Phiên Dịch:

* Duy Thức Học (6 quyển)

* Kinh Kim Cang

* Tâm Kinh

* Luận Đại Thừa Khởi Tín.

* Luận Nhân Minh.

Tổng cộng những tác phẩm phiên dịch và trước tác là 80 quyển trong đó chia ra có 8 loại chuyên đề.

 

8.Hòa thượng Thích Huệ Hưng

           
               (1917 - 1990)

Ngài thế danh là Nguyễn Thanh Chẩm, sanh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Vào năm 1938, Ngài được Tổ Vạn An (Sa Đéc) cho thế phát, lúc ấy Ngài vừa tròn 21 tuổi.

Năm 1942, Tổ Vạn An khai đàn trao giới, Ngài chính thức thọ Sa Di. Vốn thông minh sẵn có và lòng khát ngưỡng Đại Thừa, ngày đêm Ngài tinh tấn tu hành, lo phụng trì chánh giới.

Năm 1943, Tổ Vạn An biết Ngài là bậc pháp khí Đại Thừa, xứng đáng ngôi Long Tượng của Phật pháp bèn quyết định cho thọ Tỳ Kheo Bồ Tát Giới tại chùa Viên Giác ở Vĩnh Long.

Năm 1951, Ngài dưỡng bệnh tại chùa Giác Nguyên - Khánh Hội, đồng thời dạy kinh pháp cho Tăng chúng. Cũng tại chùa Giác Nguyên này, Ngài phiên dịch kinh Duy Ma Cật và Kim Cang Giảng Lục.

Năm 1954, với hoài bão “Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, Ngài đã phụ giúp Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ chùa Ấn Quang giảng các bộ kinh Đại Thừa.

Năm 1956, Ngài sang Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Đề, khi trở về Ngài được mời làm trụ trì chùa Kim Huê - Sa Đéc.

Năm 1958, Ngài giảng dạy tại Phật Học Đường Phước Hòa - Trà Vinh.

Từ năm 1966 đến 1969 Ngài làm giáo sư tại Phật Học Viện Cao Đẳng Huệ Nghiêm và giảng kinh Viên Giác tại chùa Tuyền Lâm.

Năm 1982, Thành Hội Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I đề cử ngài giữ chức vụ Phó Ban Trị Sự Thành hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục Tăng Ni.

Năm 1984, Ngài là giới sư Đại giới đàn do Thành Hội Phật Giáo Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tại chùa Ấn Quang. Đồng thời Ngài được mời giảng dạy tại các trường hạ do Thành Hội tổ chức cùng giữ chức Hiệu Phó kiêm giảng viên trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở 2.

Năm 1989, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam được thành lập, Ngài được cử làm Trưởng ban Phật giáo chuyên môn.

Tác phẩm

- Kinh Duy Ma Cật. 
- Kim Cang Giảng Lục. 
- Lược Sử Đức Lục Tổ. 
- Pháp môn tu chứng Lăng Nghiêm Đại  Định.

Chưa xuất bản:

- Kinh Phật thuyết Đương Lai Biến. 
- Kinh Phật thuyết diệt tận. 
- Tập Tri Kiến Giải Thoát.

Đang soạn dịch:

- Kinh Phạm Võng Hiệp Chú.

Theo năm tháng trôi qua, bốn đại tùy duyên thuyên giảm, Ngài ngọa bịnh tại thiền sàng. Chẳng bao lâu Hòa thượng thu thần viên tịch vào ngày 28 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1990). Ngài trụ thế được 74 năm, với 46 hạ lạp.

 
  1. Hòa thượng Thích Minh Châu (1918 – 2012)

Hòa thượng thế danh là Đinh Văn Nam, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Hòa thượng xuất gia năm 1946 tại chùa Tường Vân (Huế). Từ năm 1964 đến năm 1975, Hòa thượng về lại Việt Nam giữ chức vụ viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, chuyên lo sự nghiệp giáo dục và dịch Kinh Tạng Pali.

Năm 1976, Hòa thượng thành lập Viện Phật học Vạn Hạnh. Năm 1979, Hòa thượng tham gia vận động thống nhất và thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Năm 1981, Hòa thượng làm hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở I tại Hà Nội. Năm 1984, Hòa thượng mở Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở II tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1989, Hòa thượng thành lập và làm viện Trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Hội đồng Phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam.

Tác phẩm

Tính đến nay có trên 30 tác phẩm do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch và biên soạn, các tác phẩm và dịch phẩm chính gồm có:

Những dịch phẩm:

Kinh Tạng Pàli

  • Kinh Trung Bộ
  • Kinh Tăng Chi Bộ
  • Kinh Tương Ưng Bộ
  • Kinh Trường Bộ
  • Kinh Tiểu Bộ

Dịch từ Abhidhamma

  • Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhamma Atthasangaha)

Biên soạn

  • Phật Pháp (đồng tác giả)
  • Đường về xứ Phật (đồng tác giả)
  • Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật
  • Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa
  • Sách dạy Pàli (3 tập)
  • Chữ hiếu trong Đạo Phật
  • Hành Thiền
  • Lịch sử Đức Phật Thích Ca
  • Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
  • Chánh Pháp và hạnh phúc.

Bằng tiếng Anh

  • H'suan T'sang, The Pilgrim and Scholar (Huyền Trang, Nhà Chiêm bái và Học giả - NS Thích Nữ Trí Hải dịch Việt)
  • Fa-Hsien, the Unassuming Pilgrim (Pháp Hiển, Nhà Chiêm bái khiêm tốn - NS Thích Nữ Trí Hải dịch Việt)
  • Milindapanha and Nàgasenabhikhusùtra - A Comparative Study
  • The Chinese Madhyama Àgama and the Pàli Mahjjhima Nikàya - A Comparative Study (Luận án Tiến sĩ Phật học)
  • Some Teachings of Lord Buddha on Peace Harmony and Humandignity.

              

10. Hòa thượng Thích Bửu Huệ (1914 - 1991)

Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Ba, pháp danh Tâm Ba tự Nhựt Quang, pháp hiệu Bửu Huệ thuộc đời thứ 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt), đời thứ 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm), sinh năm Giáp Dần (1914) tại xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang.

Năm 1944 (Giáp Thân) lúc 30 tuổi, Ngài chính thức xuất gia tại chùa Thiên Phước. Tám tháng sau, ở chùa Long Quang tỉnh Vĩnh Long mở giới đàn, Ngài được Bổn sư cho đến thọ giới Sa Di.

Năm 1949, Phật học đường Liên Hải mở Đại giới đàn, Ngài thọ Cụ Túc giới.

Ban Giám đốc Phật Học Đường Ấn Quang giao trách nhiệm cho quý Ngài thành lập trường Trung đẳng Phật học Chuyên khoa đặt tại chùa Huệ Nghiêm với gần 40 học Tăng. Ngài được cử làm Giám Viện, Hòa thượng Thiền Tâm làm Giáo thọ. Hòa thượng Thanh Từ làm Quản viện. Đồng thời Ni trường Dược Sư ở Gia Định cũng được khai giảng, đặt dưới sự lãnh đạo kiêm nhiệm của ba vị.

Trong phiên họp ngày 4-5-1965 tại chùa Ấn Quang giữa Ban Giám đốc với Tổng vụ Tăng sự và Phật Học vụ, trường Trung Đẳng Phật học Chuyên khoa được đổi thành Phật Học Viện Huệ Nghiêm, nhận thêm khoảng 300 Tăng sinh vào tu học, gồm các trình độ từ Đệ thất (lớp 6) đến Đệ nhất (lớp 12) theo chương trình phổ thông. Ngài vẫn giữ chức Giám viện.

Đến năm 1968, Phật học viện gặp khó khăn về tài chánh, phải phân tán Tăng sinh tới các Phật học viện Hải Đức ở Nha Trang, Liễu Quán ở Phan Rang, Bảo Tịnh ở Phú Yên, Nguyên Thiều ở Bình Định. Phật học viện Huệ Nghiêm chỉ duy trì một lớp Trung đẳng Chuyên khoa khóa II. Cũng năm ấy, thể theo lời mời của Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục, Ngài đảm nhiệm luôn chức vụ phụ tá Vụ trưởng Phật học vụ, đặc trách chỉ đạo các Phật học viện Bắc Tông tại các tỉnh miền Nam.

Năm 1970 Đại hội Văn hóa Giáo dục kỳ IV họp tại Đà Lạt, Giáo Hội quyết định thành lập một Viện Cao Đẳng Phật Học đặt tại chùa Huệ Nghiêm suy cử Hòa thượng Trí Tịnh làm Viện trưởng, Ngài làm Phó Viện trưởng. Ngài cũng trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn Luận cho Tăng Ni sinh ở hai trường Huệ Nghiêm và Dược Sư.

Vào lúc 2 giờ ngày 27 tháng 10 Tân Mùi (02-12-1991), Ngài viên tịch tại chùa Huệ Nghiêm, hưởng thọ 78 tuổi đời và 42 hạ lạp.

 

11. Thích Thiện Siêu (1921 - 2001)

Sư tên thật là Võ Trọng Tường, sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu 1921 âm lịch trong một gia đình mộ đạo Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 14 tuổi (1935), sư xuất gia học học Phật pháp tại chùa Trúc Lâm, Huế - trường Phật học đầu tiên của Hội An Nam Phật Học - trải qua các chương trình Phật học sơ cấp, trung cấp rồi đến cao cấp.

Năm 23 tuổi (1944), sư trở thành giảng viên của trường Phật học nói trên - lúc này đã chuyển địa điểm sang Đại Tòng Lâm Kim Sơn, Huế.

Từ năm 1957 đến năm 1962, sư được cử làm Đốc giáo Phật học đường Trung Việt tại chùa Hải Đức, Nha Trang.

Năm 1962, sư trở lại Huế và làm giảng viên Phật học và tham gia công tác của Tổng trị sự Phật giáo Trung phần và Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế.

Từ năm 1964 đến năm 1974, sư được của làm Phó đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh; điều hành và giảng dạy lớp Cao đẳng Phật học chuyên khoa Liễu Quán tại chùa Linh Quang, Huế. Sư cũng tham gia giảng dạy các lớp Phật học ở nhiều tỉnh miền Trung khác.

Từ năm 1973 đến năm 1974, sư được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức, Nha Trang.

Năm 1981, sư được suy cử chức vu Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Từ năm 1981 đến năm 1984, sư được mời giảng dạy tại Trường Cao cấp Phật học ở chùa Quán Sứ.

Từ năm 1984 đến năm 1988, sư được cử làm Phó hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1988, khi Viện Nghiên cứu Phật Học Việt Nam được thành lập, sư được cử làm Phó Viện trưởng.

Năm 1991, Giáo hội cử sư làm Phó chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam, đặc trách Hán tạng.

Từ năm 1994 đến năm 2001, Giáo hội cử sư làm Hiệu trưởng Trường Cơ Bản Phật học (nay là Trường Trung cấp Phật Học), Thừa Thiên – Huế.

Năm 1997, sư được Giáo hội cử làm Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế và đảm nhiệm vị trí này cho đến ngày qua đời.

12. Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm (1921- 1997)

Hòa thượng Thích Thanh Kiểm, Đạo hiệu Chân Từ, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23 tháng 12 năm Tân Dậu (1921), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Năm 15 tuổi, hạt giống xuất trần phát triển, khi nhân duyên hội đủ, Hòa thượng đã noi gương chị gái là Sư bà Đàm Hữu, phát tâm xuất gia đầu Phật với Sư cụ chùa Linh Đường.

Năm lên 18 tuổi, Hòa thượng được Bổn sư cho đăng đàn thụ giới Sa di tại chốn Tổ Trung Hậu.

Năm 22 tuổi, để viên mãn Tam đàn Giới pháp, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Tỳ khưu tại chốn Tổ Trung Hậu, tỉnh Vĩnh Phú.

Năm 1988, khi trường Cơ bản Phật học – nay là Trường Trung cấp Phật học được thành lập tại chùa Vĩnh Nghiêm, Hòa thượng được cử làm Hiệu phó đặc trách Giám luật cho đến ngày xả báo an tường.

Năm 1990, sau khi Hòa thượng Thích Huệ Hưng, Trưởng Ban Phật giáo Chuyên môn – Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam viên tịch, Hòa thượng được Hội đồng Điều hành Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam mời làm Trưởng ban Phật giáo Chuyên môn đến năm 1997.

Năm 1992, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ III, Hòa thượng được Đại hội suy cử làm Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương.

Năm1994, sau khi Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam được thành lập tại Hà Nội, Hòa thượng được mời làm Phó ban Tư tưởng Văn hóa Đạo đức Phật giáo.

Với trình độ Phật học uyên thâm, quảng bác, quán thông Tam tạng, Triết học Đông – Tây, Hòa thượng đã từng tham gia công tác giảng dạy, giáo dục đào tạo Tăng tài cho Phật giáo, như: Giáo sư Viện Cao đẳng Phật học Sài gòn, Đại học Vạn Hạnh, Trường Cao cấp Phật học, Học viện Phật giáo Việt Nam, nhất là Trường Cơ bản Phật học nay là Trường Trung cấp Phật học Tp. Hồ Chí Minh, mà Hòa thượng đã dày công xây dựng và duy trì từ hơn thập niên qua.

Tác phẩm

  • Diễn thuyết Tập – Hà Nội – 1951.
  • Phật pháp Sơ học – Hà Nội – 1952.
  • Nghiên cứu về Tư tưởng Bản giác của Phật giáo (Nhật Bản).
  • Lược sử Phật giáo Trung Quốc.
  • Lược sử Phật giáo Ấn Độ.
  • Lược giảng Kinh Pháp Hoa.
  • Kinh Viên Giác.
  • Khóa Hư Lục.
  • Thiền Lâm Bảo Huấn.
  • Pháp Hoa Yếu Lược.
  • Luật học Đại cương.
  • Luận A Tỳ Đàm – Câu xá.

Và nhiều bài viết đăng trên các báo Phật giáo, Phương tiện, Đuốc Tuệ, Vạn Hạnh, Từ Bi, Giác Ngộ v.v…

13. Thích Thanh Từ (1924- )

Hòa thượng tục danh Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý (1924) tại ấp Tích Khánh, xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long), Việt Nam.

Vào ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu (1949), Hòa thượng Thích Thiện Hoa đã thế phát xuất gia cho s

view(361)

0 Comments

Add new comment