B7

Posted by tranminhhuydn on Wed, 29/03/2017 01:07

BÌ ĐẠI

皮袋

Cái túi da.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho thân thể của loài động vật, nói chung. Thân này chứa đựng tất cả thịt xương, ngũ tạng v.v… nên còn gọi là Xú bì đại (túi da thối), Xú bì nang (đãy da hôi).

Tắc 18, TDL ghi:

僧問趙州:狗子還有佛性也無?州云:有。既有爲甚麼却撞入這箇皮袋?

Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tính không? Châu đáp: Có. Tăng hỏi: Đã có, tại sao còn chui vô cái túi da?


BÌ HẠ HỮU HUYẾT

皮下有血

Dưới da có máu.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người có tâm huyết, có khí phách.

MANL ghi:

若是大丈夫漢、皮下有血、終不喫別人殘羹餿飯、直下自家竪起脊梁。如銀山鐵壁、於一切善惡逆順境界中、搖撼不動。

Nếu là bậc đại trượng phu có khí phách, không bao giờ ăn cơm thừa canh cặn của người khác. Tự mình lập tức phấn chấn tinh thần, lập định chí hướng giống như núi bạc vách sắt. Đối với tất cả cảnh giới thiện ác, thuận nghịch lung lay cũng không động.

BÌ HẠ VÔ HUYẾT

皮下無血

Dưới da không máu.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người không có tâm huyết, không có khí phách.

TMVK ghi:

誣誷先聖、聾瞽後昆、眼裏無筋、皮下無血之流、隨例顛倒、恬然不覺、眞可怜。

Bọn người gièm pha tiên thánh, làm mù điếc con cháu, không năng nổ, không có khí phách, thuận theo thói quen điên đảo, thờ ơ chẳng tỉnh, thật đáng thương xót!

BÌ XÁC LẬU TỬ THIỀN

皮殼漏子禪

Còn gọi: Bì khả lậu tử thiền.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho pháp thiền tự tại.

đồng nghĩa với Bì đại (túi da), dụ cho sự không vỡ, cứng chắc. Xác là vỏ trứng, dụ cho thân xác con người. Lậu là tiết ra phân, nước tiểu.

Tắc 98, BNL ghi:

若要活潑潑地、但參皮殼漏子禪、直向高山上撲將下來、亦不破、亦不壞。

Nếu muốn được hoạt bát, chỉ tham Bì xác lậu tử thiền, leo thẳng lên núi cao bổ nhào xuống, cũng không bể, cũng không hư.

BỊ ĐẦU ĐÀ

備頭陀

Thiền sư Sư Bị đời Ngũ Đại, tu hạnh đầu-đà mặc áo vải mang dép cỏ, ăn ít, suốt ngày ngồi yên, người đời gọi sư là “Bị Đầu-đà”.

X. Sư Bị.

BỊ VỊ

被位

Chỗ ngủ nghỉ riêng của mỗi vị tăng trong tăng đường thuộc tự viện Thiền tông.

Bị là bị đơn, Miên đơn, vốn chỉ cho chiếc chiếu dùng vào việc ngủ nghỉ hoặc tọa thiền. Ngoài ra, vị trí ngồi lúc thọ thực gọi là Bát vị. Bát là vật dụng đựng thức ăn. Trong tùng lâm, thông thường Bát vị (chỗ ngồi ăn) có để tên, nhưng Bị vị thì không.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di

BÍCH CHI THÁP

辟支塔

Còn gọi: Linh Nham Tự Tháp.

Tháp Bích Chi, nằm phía Tây bắc điện Thiên Phật, chùa Linh Nham, huyện Trường Thanh, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Được xây cất vào niên hiệu Thuần Hóa thứ 5 (994) đến niên hiệu Gia Hựu thứ 2 (1057) hoàn thành. Cao 52,4m, chu vi đáy tháp 48m, đây là kiến trúc theo kiểu lầu gác bát giác 9 tầng. Nền tháp bằng đá xung quanh khắc nổi những cảnh cực hình nơi âm tào địa phủ. Thân tháp xây gạch từ dưới lên trên thu hẹp dần, biểu hiện sự hùng vĩ mạnh mẽ. Cửa sổ theo phong cách thuần phác cổ xưa, trang sức tỉ mỉ. Đấu củng hoa lệ, mái tháp giàu biến hóa, mang đậm màu sắc hương vị cổ xưa, trang nghiêm tự nhiên. Đỉnh tháp là một tháp bằng sắt hợp thành kiểu bát úp, luân tướng, viên quang, ngưỡng nguyệt, bảo châu và có tám đoạn xích sắt do tám thần Kim Cang kéo ra gia cố trên mái tầng 9. Tầng đáy thiết kế có trụ giữa, có bậc thềm xây bằng gạch đi lên tháp. Tháp đứng sừng sững ở lưng chừng núi. Đời Tống, Tăng Củng có thơ rằng:

Pháp định thiền phòng lâm tiếu cốc,

Bích Chi linh tháp quán tằng loan.

Thiền phòng Pháp định gần hang núi,

Linh tháp Bích Chi giữa tầng non.

BÍCH ĐỊNH

壁定

Định như tường vách; ác giác dụ như gió. Bích định kiên cố nên 8 gió (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) chẳng xâm nhập được.

BÍCH ĐỘNG TỰ

碧洞寺

Còn gọi: Bích Sơn tự.

Chùa Bích Động, tọa lạc ở thôn Đan Khê, xã Ninh Hải, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.

Đời vua Lê Dụ Tông, khoảng năm 1705-1719, hai thiền sư Trí Kiên và Trí Thế đến núi Bích Động lập chùa để tu. Đến đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) chùa được xây dựng bằng đá và có đủ 3 cấp như hiện nay, gồm có chùa thượng, chùa trung và chùa hạ. Vua Tự Đức tuần du Bắc Thành, khi đến Bích Động thấy cảnh trí tươi đẹp và hùng vĩ, chỉ kém động Hương Tích (chùa Hương) nên đề bút “Nam Thiên Đệ Nhị Động”. Sau 2 vị khai sơn trên, các vị Trụ trì kế tiếp là các Thiền sư thuộc phái thiền Tào Động ở Đàng Ngoài, trong đó có 2 vị nổi danh là Đạo Nguyên và Minh Chánh. Tại viện Liêm Khê ở chùa Bích Động, Thiền sư Minh Chánh đã biên soạn Pháp Hoa Đề Cương và Bát Nhã Trực Giải. Trong khuôn viên chùa có tháp thờ Thiền sư Đạo Nguyên (Khoan Dực Thanh Minh) và Minh Chánh Thanh Đàm.

BÍCH GIÁC LẠC ĐẦU

壁角落頭

Chốn hoang vu hẻo lánh; xó xỉnh.

Tiết Thị Bản Sắc Đạo Nhân trong MBTL q. trung ghi:

本色道人既無父母之奉、妻子之養、征役之勞、口體之費、單單一条性命、最先要與之拈向壁角落頭、只有箇要了生死底心。

Thiền sư chân chính đã không phụng dưỡng cha mẹ, không nuôi nấng vợ con, không nhọc nhằn vì quân dịch, không tốn tiền của để nuôi thân miệng, chỉ còn có mỗi tấm thân. Việc cần làm trước hết là tìm nơi hẻo lánh, chỉ một lòng cốt liễu thoát sinh tử.

BÍCH LẠC

壁落

Tường vách, hàng rào.

Chương Phần Châu Vô Nghiệp Thiền sư trong CĐTĐL q. 8 ghi:

黃金爲世界、白銀爲壁落、此是什麼人居處?

Vàng làm thế giới, bạc làm hàng rào. Đây là chỗ của người nào ở?

BÍCH LẬP VẠN NHẪN

壁立萬仞

Vách đứng muôn trượng.

Mô tả khí khái cùng cảnh giới của người ngộ thiền, minh tâm kiến tánh, tự ngã là chủ, hoàn toàn không nương tựa, siêu thoát trần tục.

Tiết Khai thị cho Thiền nhân Quang trong MANL ghi:

衲僧家、十二時中、行住坐臥、如火燒冰、莫誇少壯、休論老成、一處錯踏翻、千處百處一時透、如獅子王吒沙地哮吼一聲、壁立萬仞、豈不慶快平生!

Hàng nạp tăng trong 24 giờ, đi đứng nằm ngồi như lửa đốt băng. Chớ khoe là trẻ khỏe, đừng luận là già từng trải. Một chỗ đạp đổ hết lầm lẫn thì trăm chỗ ngàn chỗ đồng thời thấu suốt, như sư tử chúa đuôi dựng đứng rống một tiếng, như vách đứng muôn trượng. Há chẳng thư thái cả đời sao!

BÍCH NHAM LỤC

碧巖錄

Gọi đủ: Phật Quả Viên Ngộ Thiền sư Bích Nham lục.

Còn gọi: Bích Nham tập.

Lục, 10 quyển, do Tuyết Đậu tụng cổ, Viên Ngộ Khắc Cần bình xướng vào đời Tống, Phổ Chiếu biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 117, trang 251. Từ trong ngữ lục Thiền tông, Tuyết Đậu Trọng Hiển tuyển ra 100 tắc công án (lấy tông Vân Môn làm trọng điểm), sau mỗi công án Ngài dùng thơ để bình thuyết (Tụng), nhằm chỉ dạy cho người học thiền. Về sau gọi sách này là “Tụng Cổ Bách Tắc” (100 tắc Tụng cổ). Khoảng đầu niên hiệu Chính Hòa (1111) đời Tống, Viên Ngộ Khắc Cần trụ trì viện Linh Tuyền ở Giáp Sơn, thể theo lời yêu cầu của Trương Thương Anh, thuyết giảng về 100 tắc tụng cổ, đệ tử của sư là Phổ Chiếu ghi chép, biên tập lại thành sách. Vì trong thiền lâm gọi Giáp Sơn là Bích Nham, nhân đó gọi sách này là Bích Nham lục. Bích Nham lục lấy “Tụng Cổ Bách Tắc” của Thiền sư Tuyết Đậu làm căn bản, Thiền sư Viên Ngộ giảng một đoạn “Thùy thị” trước mỗi tắc công án, trong mỗi tắc công án, tụng cổ đều có hạ “trước ngữ” và sau đó lại “bình xướng” để dẫn đường mở lối cho người học đạo. Quyển lục này sau khi được xuất bản, dư luận chốn Thiền lâm khen chê chẳng đồng. Nhóm khen cho rằng sách này có giá trị rất cao, bảo là “Tông môn đệ nhất thư” (Quyển sách hạng nhất của Thiền tông), và sau đó không ít tác phẩm mô phỏng sách này liên tiếp ra đời. Nhóm chê bảo rằng sách này thuộc loại trau chuốt văn chương, làm xiếc câu chữ, trái với tông chỉ “trực chỉ nhân tâm” của Thiền tông, khiến người học thiền chạy theo hình thức mà không thật ngộ. Vì thế Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo vì cứu tệ nạn này mà cương quyết thiêu hủy kiệt tác của Thầy mình và cấm chỉ lưu truyền. Bích Nham lục sau khi bị thiêu hủy hơn 100 năm, đến niên hiệu Đại Đức thứ 1 (1297) đời Nguyên Thành Tông, cư sĩ Trương Minh Viễn ở Hàng Châu sưu tập các bản còn sót lại ở các nơi, giảo chính rồi cho tái bản. Quyển lục này là mẫu mực của Tông môn, là kim chỉ nam đi biển, là sao Bắc Đẩu trong đêm tối.

BÍCH QUÁN

壁觀

Ngồi xoay mặt vào vách, quán tâm như vách, để mọi suy tư lắng đọng, xả vọng về chân.

Bài tựa sách Lược biện Đại thừa nhập đạo tứ hạnh của Đàm Lâm trong CĐTĐL q. 30 ghi:

此是大乘安心之法、令無錯謬、如是安心者壁觀、如是發行者四行。

Đây là pháp an tâm của Đại thừa khiến cho không có sai lầm. An tâm như thế là Bích quán. Phát hạnh như thế là Tứ hạnh.

BIẾM BÁC

貶剝

Phê bình, bác bỏ.

LTNL ghi:

一切時中、莫亂斟酌。會與不會、都來是錯。分明與麼道、一任天下人貶剝。

Trong tất cả thời, chớ suy tính lung tung. Hội cùng chẳng hội, thảy đều là lầm lẫn. Rõ ràng nói thế ấy, mặc cho người trong thiên hạ bác bỏ.

BIẾN THAM

遍參

Chỉ tăng lữ đi khắp nơi tham học với thiện tri thức để thêm sự hiểu biết cho mình (xét thấu mê với ngộ, chân với vọng của việc lớn sinh tử).

BIỂN CỤC

褊局

Nhỏ hẹp, hẹp hòi.

BNL q. 1 ghi:

褊局之量、自不堪任、竞起害心、敷加毒葯。

(Bọn họ) Khí lượng hẹp hòi tự mình không chịu nổi, cùng khởi lòng hại người, nhiều lần đánh thuốc độc.

BIỂN ĐỘN (?-1563)

匾囤

Thiền sư đời Minh, họ Trần, hiệu Vô Không, người xứ Vũ Châu (nay là huyện Vũ, Hà Nam) Trung Quốc.

BIỂN KHÁNH

扁罄

Một loại pháp khí làm bằng đá, hình thể giống như hình đám mây, treo ở ngoài hành lang Phương trượng. Nếu có khách đến muốn gặp thầy Trụ trì, vị Tri khách liền đánh biển khánh 3 tiếng.

BIỆN

1. Chuẩn bị, thu xếp.

Chương Tổ 13, Ca-tỳ-ma-la trong CĐTĐL q. 2 ghi:

汝雖心語、吾已意知、但辦出家、何慮吾之不聖?

Dù cho ngươi nghĩ thầm trong bụng, ta đã biết rồi. Cứ chuẩn bị xuất gia đi, lo gì ta chẳng phải thánh?

2. Hoàn thành, thành công.

Bài thơ Tự thuật chân tán trong PDNL q. hạ ghi:

現成公案、無事不辦。

Công án sẵn sàng ngay trước mắt, không việc gì chẳng hoàn thành.

BIỆN

辨、弁

Phân biệt, phân rõ.

Tiết Hoàng Bá Hòa thượng trong TĐT q. 6 ghi:

若有此眼腦、不妨弁得邪正宗儻。

Nếu có con mắt trí huệ này, quả tình phân biệt được tông đảng tà chính.

BIỆN ĐẠO

辦道

1. Làm xong đạo nghiệp. Đồng nghĩa với Thành biện.

Thiền tông vào đầu đời Đường chưa có ngữ động từ Biện đạo. Đến giữa đời Đường, sau khi Ngũ gia thất tông hình thành thì ngữ động từ này được sử dụng rộng rãi.

Chương Quốc sư Đại Đạt Vô Nghiệp trong CĐTĐL ghi:

且圖什麼?兄弟只爲貪欲成性。二十五有向腳跟下繫著、無成辦之期。

Lại mưu toan cái gì? Các huynh đệ chỉ vì tham dục thành tính nên bị 25 hữu trói buộc, không biết lúc nào đạo nghiệp mới xong.

2. Chỉ cho sự tu hành theo lối tọa thiền.

BIỆN ĐÍCH

辨的

Làm cho rõ ràng, phân biệt rõ.

Tiết Hoàng Long Tổ Tâm Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi:

一漚未發、古帆未征、風信不來、無人擧棹、正當恁麼時、水脉如何辨的?

Hòn bọt chưa nổi, buồm xưa chưa giương. Tin gió chẳng đến, không có người giở chèo. Chính ngay khi ấy làm sao phân biệt rõ được luồng nước?

BIỆN HUỆ

辨慧

Trí huệ khéo giảng nói nghĩa của các pháp. Có tài biện luận.

Chương Bát-nhã Đa-la trong CĐTĐL q. 3 ghi:

此是世寶、未足爲上、於諸寶中、法寶爲上;此是世光、未足爲上。於諸光中、智光爲上;此是世明、未足爲上、於諸明中、心明爲上。。。尊者歎其辨慧。

Đây là của báu thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột. Đây là ánh sáng của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh sáng trí huệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian chưa đủ làm tột, trong các thứ trong sạch chỉ có tâm trong sạch là tột… Tôn giả khen ngợi tài biện luận của Bồ-đề-đa-la.

BIỆN LONG

辨隆

Thiền sư đời Tống, người xứ Minh Châu (nay là Ninh Ba, Chiết Giang) Trung Quốc, nối pháp thiền sư Linh Ẩn Thanh Tủng, tông Pháp Nhãn. 

BIỆN NGỤY LỤC

辨僞錄

Còn gọi: Chí Nguyên Biện Ngụy lục.

Lục, 5 quyển, do Tường Mại soạn vào đời Nguyên, được xếp vào Đại Chính Tạng tập 52, trang 751.

Vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời Nguyên, Tường Mại phụng sắc soạn sách này để bài xích ngụy thuyết của Đạo giáo. Bởi vì các vị của phái Toàn Chân là Khưu Xử Cơ, Lý Chí Thường cưỡng chiếm 482 ngôi tự viện, phá hủy tượng Phật, bảo tháp, xây dựng lại làm Đạo quán, truyền bá “Lão Tử Hóa Hồ Kinh” và “Lão Tử Bát Thập Nhất Hóa Đồ”, đưa đến chỗ tranh luận kịch liệt giữa hai giáo Phật và Đạo. Nửa phần trước của Biện Ngụy lục gồm 14 thiên bài xích Đạo giáo và sách vở của họ. Nửa phần sau kể lại ngọn nguồn việc triều đình nhà Nguyên cho hai giáo Phật và Đạo biện luận chân ngụy. Phụ lục các văn hiến có liên quan.

BIỆN SỰ

辨事

Tên gọi chung cho ban Chức sự trong thiền lâm như Liêu nguyên, Liêu chủ, Phó liêu, Diên thọ đường chủ, Tịnh đầu, Hóa chủ, Viện chủ, Ma chủ, Thủy đầu, Thán đầu, Trang chủ, Giám thu v.v…

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BIỆN TÀI (thế kỷ XVI)

辯才

Thiền sư Việt Nam đời Lý, nối pháp Quốc sư Thông Biện, thuộc thế hệ thứ 9 dòng Vô Ngôn Thông.

Sư trụ trì chùa Vạn Tuế (Vạn Niên) ở Kinh đô Thăng Long và vâng lệnh vua nhà Lý sửa lại sách Chiếu Đối Bản của Quốc sư Thông Biện thành sách Chiếu Đối lục.

Theo: Thiền Uyển Tập Anh.

BIỆN VIÊN (1202-1272)

辨圓

Gọi đủ: Viên Nhĩ Biện Viên 圓爾辨圓   .

Thiền sư đời Tống, người Tuấn Hà, Nhật Bản.

Năm 18 tuổi sư xuất gia ở chùa Viên Thành (Onjo-ji), Cận Giang (Omi). Sư thụ giới ở chùa Đông Đại (Todai-ji), Nại Lương (Nara). Sư theo các đại đức ở Kinh Đô (Kyoto), Liêm Thương (Kamakura) để học giáo lý hiển mật của Tiểu, Đại thừa. Niên hiệu Đoan Bình thứ 2 đời Nam Tống, Tức niên hiệu Gia Trinh thứ 1 (1235) triều Tứ Điều Thiên Hoàng sư sang Trung Quốc, học giáo nghĩa Thiên Thai với Bách Đình Thiện Nguyệt, từng tham học các nơi Tật Tuyệt Đạo Xung, Tiếu Ông Diệu Kham, Thạch Điền Pháp Huân. Sau đó sư lên Kinh Sơn nối pháp Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm. Niên hiệu Thuần Hựu thứ 1 (1241) sư trở về nước, có đạo gia Quan Bạch Đằng Nguyên đến quy y và sư dựng chùa Đông Phúc (Tofuku-ji) ở đinh Bản, khu Đông Sơn, Kyoto. Nơi đây trở thành cơ sở hoằng pháp thứ hai của tông Lâm Tế. Biện Viên mang về Nhật Bản vài ngàn quyển sách gồm kinh luận, chương sớ, ngữ lục, Khổng nho… Đều dâng tặng vào thư khố viện Phổ Môn (Fumon) ở Kyoto. Sư có cống hiến rất lớn về việc xúc tiến phát triển văn hóa Nhật Bản và là người đề xướng cái học Giáo Thiền nhất trí. Môn đình của sư rất hưng thịnh, Thiên Hoàng ban cho sư hiệu “Thánh Nhất Quốc Sư”. Theo phả hệ sư là Tổ Thiền tông đời thứ 27, Nam Tông đời thứ 22, hệ Nam Nhạc đời thứ 21, Tông Lâm Tế đời thứ 17, Tông Lâm Tế Nhật Bản đời thứ 3.

BIỆT AM

别庵

Hiệu của Thiền sư Tính Thống sống vào đời Thanh.

X. Tính Thống.

BIỆT NGỮ

別語

Thêm một lời đáp khác vào lời ứng đối đã có trong công án được nêu ra.

Tiết Thụy Lộc Bản Tiên Thiền sư trong NĐHN q. 10 ghi:

大凡參學、未必學問話是參學、未必學揀話是參學、未必學代語是參學、未必學別語是參學。

Nói chung về việc tham học, không hẳn là học hỏi, không hẳn là học phân biệt bình luận công án, không hẳn là học đại ngữ (nói thay), không hẳn là học biệt ngữ.

BIỆT PHONG

别峯

Hiệu của Thiền sư Đại Đồng sống vào đời Nguyên.

X. Đại Đồng.

BIỆT THỊ NHẤT CÀN KHÔN

別是一乾坤

Nguyên ý là có trời đất riêng khác.

Trong Thiền tông chỉ cho cảnh giới khai ngộ siêu việt tình thức phân biệt.

Tắc 92, TDL ghi:

收卷餘懷厭事華

歸來何處是生涯

爛柯樵子疑無路

挂樹壺公妙有家。

(別是一乾坤)

Thu xếp hành trang ngán sự đời

Quay về đâu nhỉ để sinh nhai?

Gã tiều cán mục ngờ không lối

Ông đạo bầu treo khéo có nơi.

(Riêng có trời đất).

Nếu như mô tả gia phong riêng biệt không gì có thể so sánh được, gọi là Biệt Thị Nhất Gia Phong 別是一家風.

Tắc 64, BNL ghi:

公案圓來問趙州

長安城裹任閑遊

草鞋頭戴無人會

(也有一箇半箇。別是一家風。明頭也合暗頭也合。)

Công án đem ra hỏi Triệu Châu

Trường An thành ấy mặc ngao du,

Giày cỏ đội đầu nào ai biết

(Cũng còn một người ưu tú có gia phong riêng, sáng cũng hợp, tối cũng hợp).

BIỆT TRUYỀN TỰ

别傳寺

Chùa Biệt Truyền, nằm trên sườn núi Đan Hà cách trung tâm huyện Nhân Hóa, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc 8km về phía Nam.

Chùa đứng sừng sững nơi cửa ải hiểm yếu, là cửa ải hàng đầu núi Đan Hà, được gọi là Bách Việt Danh Sát. Núi Đan Hà vốn gọi là “Trưởng Lão Trại”, đời Đường đã có cao tăng cư trú. Thời Tống Minh đã có Thiền tông Lục Tổ đường, văn nhân học sĩ thường kết am đọc sách, nổi tiếng một thời. Tuần phủ Lý Vĩnh Mậu ở Kiền Châu, Nam Minh bại binh lui về Trưởng Lão Trại. Bởi nham thạch núi này do hồng sa nham cấu thành rất giống núi Đan Hà ở quê hương Đặng Châu, Hà Nam, cho nên gọi là “Đan Hà Sơn”. Đầu đời Thanh, Kim Bảo là di thần Nam Minh sáng lập “Biệt Truyền Tự” tại núi này (Có thuyết cho rằng Hòa thượng Đàm Quy sáng lập). Quy mô rộng lớn, cùng với Thiều Quan Nam Hoa Tự, Thanh Viễn Giáp Sơn Tự được mọi người khen ngợi.

BIỆT VIỆN

別院

Ngoại trừ bản sơn của một tông, các tự viện được thiết lập ở các nơi khác đều được gọi là Biệt viện.

Như Phật Quang Sơn ở Cao Hùng-Đài Loan có Biệt viện Phổ Môn Tự ở Đài Bắc, Biệt viện Phổ Hiền Tự ở Cao Hùng.

BIỂU HIỂN

表顯

Cái biểu lộ ra ngoài, thường là dấu vết của lời nói, tri giải.

LTNL ghi:

如十二分教。皆是表顯之説。學者不會。便向表顯名句上生解。皆是依倚落在因果。未免三界生死。

Ngay như mười hai phần giáo đều là lời nói biểu hiển. Người học không lãnh hội liền nhằm tên danh từ câu chữ biểu lộ ra ngoài để tìm hiểu, đều là nương tựa, rơi trong nhân quả, chưa khỏi sinh tử ba cõi.

BIỂU TẮC

表則

Kiểu mẫu. Gương mẫu.

Chương Hòa Sơn Vô Điện Thiền sư trong CĐTĐL q. 17 ghi:

學徒濟濟、嘗述垂誡十篇、諸方歎服、咸謂禾山可以爲叢林表則。

Người học tụ về, Sư từng trình bày 10 thiên răn dạy. Các nơi thán phục, thảy đều bảo rằng Hòa Sơn có thể làm gương mẫu chốn tùng lâm.

BIỂU TỬ

俵子

Thẻ để nhận vật bố thí.

Đối với việc bố thí trong ma chay v.v… trước đó phân phát thẻ cho mọi người, thẻ này gọi là biểu tử. Đến đúng ngày giờ, cầm thẻ đến nơi có đám ma chay để nhận bố thí.

BÍNH ĐINH ĐỒNG TỬ

丙丁童子

Chú bé coi về việc đèn lửa.

Dụ cho chúng sinh sẵn đủ Phật tính lại đi tìm bên ngoài. Bính Đinh là can Bính, Đinh trong thiên can phối hợp với ngũ hành thì thuộc về hỏa, cho nên dùng Bính Đinh để dụ cho lửa.

CĐTĐL q. 24 ghi:

金陵報恩院玄則禪師滑州衛南人也。初問青峰如何是佛青峰曰:丙丁童子來尋火。

Thiền sư Huyền Tắc ở viện Báo Ân, Kim Lăng, là người Vệ Nam, Hoạt Châu. Ban đầu sư đến hỏi Thanh Phong: Thế nào là Phật? Thanh Phong nói: Chú bé coi về việc đèn lửa mà đến xin lửa.

BÍNH NGỮ

柄語

Tiểu tựa đặt ở đầu sớ khuyến thỉnh vị Tân trụ trì nhập tự, hoặc ở đầu sớ của các sư đồng môn chúc mừng vị Tân trụ trì. Vì phần tiểu tựa này tóm yếu cả bài sớ nên gọi là Bính ngữ.

BÌNH BÌNH THIẾP THIẾP

平平貼貼

Rất bình thường, rất ổn đáng.

Thư đáp Trịnh Côn Nham Trung thừa trong HSLNMDT q. 1 ghi:

不得貪求玄妙、以此事本來平平貼貼、實實落落、一味平常、更無玄妙。所以古人道:悟了還同未悟時、依然只是舊時人。

Chẳng được tham cầu huyền diệu, bởi việc này xưa nay rất ổn đáng, đầy đủ sẵn sàng, một mực bình thường không có gì huyền diệu. Vì thế người xưa nói: Ngộ rồi vẫn đồng với lúc chưa ngộ, y nguyên chỉ là người cũ.

view(835)