B6
BẤT LY VỤ THỊ GIẢ
不釐務侍者
Thị giả danh dự.
Tuy có chức vụ nhưng thật sự không làm nhiệm vụ thị giả.
Khô Nhai Mạn lục, q. thượng ghi:
鐵鞭韶禪師在密庵處、任不釐務侍者達六年。
Thiền sư Thiết Tiên Thiều ở Mật Am nhận chức Bất ly vụ thị giả được 6 năm.
BẤT MẬU
不謬
Chẳng hổ là; không thẹn là.
Chương Đan Hà Thiên Nhiên Thiền sư trong CĐTĐL q. 14 ghi:
師一日謁忠國師。先問侍者:國師在否?曰:在即在不見客。師曰:太深遠生。曰:佛眼亦鄰不見。師曰:龍生龍子鳳生鳳兒。國師睡起侍者以告。國師乃鞭侍者二十棒遣出。後丹霞聞之乃云:不謬爲南陽國師。
Một hôm, sư đến yết kiến Quốc sư Huệ Trung. Đầu tiên hỏi thị giả: Quốc sư có ở chùa không? Đáp: Ở thì ở mà không tiếp khách. Sư nói: Thật sâu xa thay! Thị giả nói tiếp: Mắt Phật nhìn còn chẳng thấy. Sư nói: Rồng sinh rồng con, Phụng sinh phụng con. Quốc sư thức dậy, thị giả thưa lại chuyện vừa rồi, Quốc sư liền quất cho thị giả hai mươi gậy, đuổi ra. Sau đó, Đan Hà nghe việc này, liền nói: Chẳng hổ là Nam Dương Quốc sư.
Tiết Thạch Thê Hòa thượng trong NĐHN q, 4 ghi:
一日見侍者拓缽赴堂、乃喚侍者、者應諾。師曰:「甚處去?者曰:上堂齋去。師曰:我豈不知汝上堂齋去?者曰:除此外別道箇甚麼?師曰:我秖問汝本分事。者曰:和尚若問本分事、某甲實是上堂齋去。師曰:汝不謬爲吾侍者。
Một hôm Sư thấy thị giả bưng bát đi ăn cơm, liền gọi: Thị giả! Thị giả: Dạ! Sư hỏi: Ngươi đi đâu đó? Thị giả: Đến trai đường ăn cơm. Sư bảo: Ta há không biết ngươi lên trai đường ăn cơm sao? Thị giả thưa: Ngoài điều này ra, còn hỏi gì khác? Sư bảo: Ta hỏi ngươi về việc phần gốc của ngươi. Thị giả thưa: Nếu Hòa thượng hỏi việc phần gốc, thì chính là con đang lên trai đường ăn cơm đây. Sư bảo: Ngươi không thẹn là thị giả của ta!
BẤT NHỊ
不二
Đồng nghĩa với Vô trụ.
Chẳng phải cái nhị của tương đối mà cũng chẳng phải là một.
Đoạn cuối trong Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán ghi:
信心不二
不二信心
言語道斷
非古來今
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Đường ngôn ngữ dứt
Chẳng phải xưa nay.
BẤT NHỊ HUYỀN CHỈ
不二玄旨
Còn gọi: Bất nhị pháp môn
Giáo pháp hiển bày chân lý bình đẳng tuyệt đối, vượt ra ngoài tất cả đối đãi sai biệt. Tức ngay nơi 84.000 pháp môn của Phật giáo thường nhận ra chân lý bình đẳng tuyệt đối.
Phẩm Bất Nhị Pháp Môn trong Kinh Duy Ma nói có 33 cách giải thích về Bất Nhị Pháp Môn.
Minh Chơn Tụng trong PKNL q. 18 ghi:
昔有維摩大士示疾在毘耶城裏、三十二箇菩薩、各談不二玄旨、文殊請問維摩、維摩一默而已。
Thuở xưa đại sĩ Duy-ma-Cật nhuốm bệnh nằm trong thành Tỳ-da. Ba mươi hai vị Bồ-tát, mỗi mỗi nói về bất nhị huyền chỉ - Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi ngài Duy-ma về vấn đề này, ngài chỉ một bề im lặng mà thôi.
BẤT NHỊ PHÁP MÔN
不二法門
Pháp môn có phương tiện và cứu cánh không khác, hoặc chỉ cho pháp môn hiển bày ý nghĩa vạn pháp đều bình đẳng nhất như. Đó chính là Thiền tông.
Tiết Đại Dương Cảnh Huyền trong NĐHN q. 14 ghi:
宗乘妙句語路難陳,不二法門淨名杜口。
Diệu cú của Thiền tông thì lời nói khó mà trình bày ra được. Pháp môn bất nhị, khi được hỏi đến thì ngài Tịnh Danh nín lặng.
BẤT PHẪN
不憤
Không phục, không chịu, ấm ức.
BNL q. 1 ghi:
法眼云:監院果然錯會了也。則(卽監院)不憤、便起單渡江去。
Pháp Nhãn nói: Giám Viện quả nhiên hiểu lầm rồi! Tắc (tức Giám viện) không phục, liền từ giã thiền viện, sang sông.
BẤT PHƯƠNG
不妨
1. Quả thật, thật là, rất. Phó từ.
BNL q. 1 ghi:
雪竇到這裏、不妨爲人赤心片片。
Đến chỗ này, Tuyết Đậu quả thật hết lòng vì người.
2. Cố nhiên, tự nhiên, biểu thị khẳng định có điều kiện.
Tiết Ứng Am Hoa Thiền sư trong GTPĐ q. 26 ghi:
雲門道得、不妨諦當、要且落在第二頭。
Vân Môn nói được, cố nhiên là xác đáng, nhưng lại rơi vào nghĩa thứ hai.
BẤT QUY
不規
Không nhất định.
Tiết Kiếm Môn An Phần Am Chủ trong NĐHN q. 20 ghi:
遂徑回西禪懶庵迎之、付之伽梨。自爾不規所寓。後庵居劍門、化被岭表、學者從之。
Sư liền theo đường tắt trở về Tây Thiền. Lại Am ra đón sư trao cho y Tăng-già-lê. Sư theo ý mình không ở nơi nào nhất định. Về sau cất am ở Kiếm Môn, sư giáo hóa bao trùm Lĩnh Biểu, được người học nghe theo.
BẤT TÀI TỊNH
不才淨
Còn gọi: Bất tài bất tịnh.
Không tài hoa, không sạch sẽ.
Thuật ngữ chỉ cho ngôn ngữ văn tự bình thường là lời nói chết, câu chết, chỉ gây thêm rối rắm. Hàm ý tự chê trách.
Phần Thị Chúng trong LTL ghi:
大德、山僧今時事不获已、話度說出許多不才淨。尔且莫錯。
Đại đức! Hôm nay, sơn tăng cực chẳng đã mới nói ra lắm lời rối rắm, các ngươi chớ lầm.
BẤT THẨM
不審
1. Chẳng biết.
Tào Khê Đại Sư Biệt truyện ghi:
不審和尚初付囑時、更有何言教?愿垂指示。
Lúc ban đầu phó chúc, chẳng biết Hòa thượng còn có dạy lời gì? Con cúi mong được ngài chỉ bảo.
2. Còn gọi: Vấn tấn.
Chào thầy.
Tiết Tiệm Nguyên Trung Hưng Thiền sư trong NĐHN q. 5 ghi:
師後住漸源。一日在紙帳內坐、有僧來拔開帳曰:不審!
Về sau, sư trụ Tiệm Nguyên. Một hôm sư đang ngồi trong trướng, có vị tăng đến vén màn nói: Chào thầy!
BẤT THỊ TÂM, BẤT THỊ PHẬT, BẤT THỊ VẬT
不是心、不是佛、不是物
Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho đại đạo không thể nói, siêu việt tất cả danh từ khái niệm.
VMQ ghi:
南泉和尚因僧問云:還有不與人說底法麼?泉云:有。僧云:如何是不與人說底法?泉云:不是心、不是佛、不是物。
Nhân có vị tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền rằng: Còn có pháp gì đừng nên nói cho người chăng? Nam Tuyền bảo: Có. Tăng thưa: Pháp đừng nên nói cho người là pháp gì? Tuyền bảo: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.
BẤT THIỆP GIAI THÊ
不涉階棲
Còn gọi: Bất lịch giai thê.
Chẳng dính dáng đến thềm thang.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho pháp thiền chỉ thẳng tâm người, lập tức giác ngộ, không có cấp bậc thứ lớp.
MANL ghi:
祖師門下、直截省要、不歷階梯、立地成佛。
Hàng đệ tử Tổ sư dứt khoát tỉnh ngộ, không trải qua thứ lớp, lập tức thành Phật.
VMQ ghi:
劍刃上行、冰棱上走、不涉階棲、懸崖撒手。
Đi trên kiếm bén, chạy trên băng mỏng, chẳng trải qua thứ lớp, buông tay nơi vực thẳm.
BẤT THIỆP TRÌNH ĐỒ
不涉程途
Không can hệ đến quá trình tu tập tiến triển dần dần (trong việc tỏ ngộ thiền).
Thư đáp Trịnh Côn Nham Trung Thừa trong HSLNMDT q. 1 ghi:
要之、佛祖向上一路、不涉程途、其在初心方便、也須從者里透過始得。
Tóm lại, pháp thiền vi diệu của Phật Tổ không can hệ đến quá trình tu tập tiến triển dần dần. Việc ấy ở nơi phương tiện sơ tâm, cũng cần phải từ chỗ này thấu qua mới được.
BẤT THỈNH
不請
Xin đừng, không cần phải.
MGNL q. 2 ghi:
他後見別處長老、學士不請舉向伊。
Sau này có gặp các bậc Trưởng lão ở nơi khác, xin Học sĩ đừng giới thiệu ông ấy.
BẤT THUỘC TIỆM THỨ
不屬漸次
Chẳng lệ thuộc thứ tự tiến dần.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho pháp thiền cần lập tức lãnh ngộ, không cần phải từ từ tu hành, trong ấy cũng không có trình tự thứ lớp.
ULL ghi:
祖師直指、一切衆生本心本體本來是佛、不假修成、不屬漸次。
Tổ sư chỉ thẳng bản tâm bản thể của tất cả chúng sinh xưa nay là Phật, chẳng nhờ tu hành mới thành, không cần phải từ từ, cũng không có trình tự, thứ lớp.
BẤT THUYẾT THUYẾT, BẤT VĂN VĂN
不說說、不聞聞
Chẳng nói mà nói, chẳng nghe mà nghe.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc tiếp nhận pháp Thiền không phải nơi miệng tai, mà là ở nơi tâm ấn tâm.
MANL ghi:
諸佛不說說、祖師不聞聞、下一轉語千古透乾坤。
Chư Phật chẳng nói mà nói, Tổ sư chẳng nghe mà nghe, để lại một chuyển ngữ, ngàn đời trấn giữ trời đất.
BẤT THỨC LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC
不識盧山眞面目
Chẳng biết mặt thật của non Lô.
Thành ngữ này bắt nguồn từ bài thơ Đề Tây Lâm Bích của Tô Thức, nhà thơ đời Tống. Toàn bài thơ mô tả tác giả đi chơi cảnh núi Lô, đứng ở các vị trí khác nhau mà nhìn cảnh núi này. Do núi Lô suốt năm mây mù bao phủ, hơn nữa, tác giả đứng ở trong núi không sao nhìn thấy toàn cảnh Lô Sơn, do đấy mới cảm khái thốt lên:
橫看成嶺側成峰
處處高低各不同
不識廬山眞面目
只猶身在此山中。
Trông ngang thành dãy, xéo thành tòa,
Nơi nơi cao thấp khác nhau xa,
Chẳng biết Lô Sơn mày mặt thật,
Chỉ do thân ở trong non này.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho tình huống của một người không có tầm nhìn thấu suốt, không nhận thức rõ bản chất của sự vật.
BẤT TÍCH MY MAO
不惜眉毛
Chẳng tiếc lông mày.
Thuật ngữ chỉ cho việc bất chấp bị trừng phạt.
Tiết Huệ Lâm Tông Bản Thiền sư trong NĐHN q. 16 ghi:
山僧今日不惜眉毛、與汝諸人說破。
Hôm nay sơn tăng bất chấp bị trừng phạt, sẽ nói toạc ra cho các ông biết.
BẤT TIỄN GIAI THÊ
不踐階梯
Còn gọi: Bất lịch giai thê, bất thiệp giai thê.
Không theo thềm thang.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho không cần trải qua các cấp bậc trung gian mà trực tiếp lãnh ngộ tâm tánh.
Bài tựa của Dương Ức trong CĐTĐL ghi:
不立文字、直指心源、不踐階梯、徑登佛地。
Chẳng lập văn tự, chỉ thẳng nguồn tâm, không theo cấp bậc, thẳng lên đất Phật.
BẤT TÍN ĐẠO
不信道
Nói mà không chịu tin.
Tắc 8, BNL ghi:
不信道不妨奇特。若是恁麼人方解恁麼道。
Nói mà không chịu tin đây quả là kì đặc. Nếu là người như thế mới biết nói như thế.
BẤT TRANH ĐA
不爭多
Xấp xỉ, chẳng khác mấy.
Tiết Linh Yểm Hòa thượng trong CĐTĐL q. 23 ghi:
僧問:己事非明、以何爲驗?師曰:木鏡照素容。曰:驗後如何?師曰:不爭多。
Tăng hỏi: Việc mình không sáng, lấy cái gì để nghiệm? Sư bảo: Gương gỗ soi không thấy hình. Hỏi: Sau khi nghiệm thế nào? Sư đáp: Chẳng khác mấy.
BẤT TRIỆT
不徹
1. Không ngừng, không dứt.
Đặt sau động từ, giải thích thêm cho hành vi hoặc động tác.
NTNL q. thượng ghi:
杜鵑啼不徹、血流山竹裂。
Chim quốc kêu không dứt, máu chảy tre núi nứt.
2. Không bằng, không kịp.
Đặt sau động từ, nhấn mạnh hành vi, động tác không có cách gì để hoàn thành.
Tiết Hương Nghiêm Hòa thượng trong TĐT q. 19 ghi:
急著力、勤嚙齒、無常到來救不徹。
Mau ra sức, siêng nỗ lực, vô thường đến rồi cứu không kịp.
BẤT TRÚNG
不中
Không đúng, không hợp.
Chương Nam Nhạc Hoài Nhượng trong CĐTĐL q. 5 ghi:
祖問:甚處來?師曰:嵩山來。祖問:什麼物恁麼來?師曰:道相似一物卽不中。
Tổ hỏi: Từ đâu đến? Sư đáp: Từ Tung Sơn đến! Tổ hỏi: Vật gì đến như thế? Sư đáp: Nói giống một vật thì chẳng đúng.
Tiết Đầu Tử Nghĩa Thanh Thiền sư trong NĐHN ghi:
(圓通禪師)卽曳杖入堂、見師正睡、乃擊床呵曰:我這裏無閑飯與上座吃了打眠!師曰:和尚教某何爲?通曰:何不參禪?師曰:美食不中飽人吃。
(Thiền sư Viên Thông) liền xách gậy vào tăng đường, thấy sư đang ngủ, liền gõ vào giường, quở rằng: Ở đây, ta không có dư cơm để cho Thượng tọa ăn no rồi ngủ! Sư thưa: Hòa thượng dạy tôi làm gì? Thông nói: Sao chẳng tham thiền đi? Sư đáp: Thức ăn ngon chẳng hợp với người no bụng.
BẤT TRƯỚC THÁNH PHÀM
不著聖凡
Không dính vào kiến giải phân biệt đối đãi bậc Thánh với kẻ phàm.
Thuật ngữ Thiền tông phản ánh tư tưởng Vạn pháp nhất như của Phật giáo.
Trấn Châu Đại Bi Hòa thượng trong NĐHN q. 11 ghi:
不著聖凡、請師答話。
Chẳng dính vào kiến giải phân biệt bậc Thánh với kẻ phàm, thỉnh Sư đáp cho.
BẤT TRƯỚC THỊ PHI
不著是非
Còn gọi: Bất lạc thị phi.
Chẳng dính vào thị phi.
Đối với sự vật không phân biệt phải và chẳng phải.
Tiết Song Phong Cổ Thiền sư trong NĐHN q. 9 ghi:
僧問:和尚當時辭石霜、石霜恁麼道、意作麼生?師曰:只教我不著是非。
Tăng hỏi: Ngay lúc Hòa thượng giã từ Thạch Sương, Thạch Sương nói thế ấy, ý thế nào? Sư nói: Chỉ là dạy ta chẳng dính vào thị phi.
BẤT TRƯỚC TIỆN
不著便
Chẳng được tiện lợi, chẳng gặp may, xui xẻo, không hợp thời cơ.
LTNL ghi:
師到金牛、牛見師來、橫按拄杖當門踞坐。。。師便打、牛作倒勢、師又打、牛云:今日不著便。
Sư đi đến Kim Ngưu, Ngưu thấy sư đến liền đặt gậy nằm ngang cửa chính rồi ngồi xổm… Sư bèn đánh. Ngưu làm bộ té. Sư lại đánh. Ngưu nói: Hôm nay xui xẻo.
BẤT TỪ
不辭
Không quản ngại, không từ chối.
Ngữ động từ này phần lớn nằm ở phần câu phía trước trong câu phức chuyển chiết.
Tiết Đại Dương Cảnh Huyền Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi:
道卽不辭、恐上紙筆。
Sư bảo: Nói thì không quản ngại, chỉ e còn trên giấy bút.
BẤT TỨC LƯU
不唧嚠
1. Không thể dùng được, không thu hoạch.
VMQL, q. hạ ghi:
因普請般米了、坐次云:近日不唧嚠只担得一斗米、不如快脫去!
Nhân thỉnh đại chúng làm việc công cộng như khuân vác gạo thóc, Tọa chủ nói: Gần đây không thu hoạch, chỉ khuân được một đấu gạo, chẳng bằng mau buông xuống đi!
2. Ngây ngô.
Trung Phong quảng lục q. 4 ghi:
棒頭領旨、喝下明宗、已是第一等不唧嚠底鈍漢。
Ngay đầu gậy lãnh hội ý chỉ, nơi tiếng hét thấu rõ tông chỉ, đây đã là kẻ ngây ngô đần độn hạng nhất.
BẤT TƯƠNG VI SỰ
不將爲事
Chẳng muốn làm một lèo cho xong việc (tham thiền).
ĐTTY ghi:
若不將爲事、受殃有日在。故云:著日今生須了却、誰能累劫受余殃?
Nếu chẳng muốn làm một lèo cho xong việc tham thiền thì có ngày bị tai ương! Cho nên nói: Đời này nỗ lực cho liễu ngộ, ai hay nhiều kiếp chịu tai ương?
BẤT VONG THIỀN
不忘禪
Loại thiền định luyện tập trí nhớ.
Kinh Xá-lợi-phất vấn ghi:
阿難修不忘禪、得佛覺三昧。
A-nan tu thiền định luyện tập trí nhớ, được Phật giác tam-muội.
BẤT VÔ
不無
Chẳng phải không.
Ngữ động từ này đặt ở cuối phân câu phía trước trong câu phức chính phụ, biểu thị quan hệ chuyển ý, khẳng định có điều kiện.
PDNL q. trung ghi:
二十五年坐這曲彔木頭上。舉古舉今則不無。秖是未曾道著第一句。
Hai mươi lăm năm ngồi ghế dây (làm trụ trì) nêu ra công án xưa, nay thì chẳng phải không, có điều là chưa từng nói đến câu thứ nhất (Đệ nhất cú).
BẤT Ý
不意
Không đồng ý, không chịu, ấm ức.
TMVK ghi:
保寧勇禪師、四明人、初更衣依雪竇顯禪師同道。雪竇呵爲夬庠座主。勇不意。堂儀纔滿、卽抽單、望雪竇山拜曰:我此生行脚參禪、道價若不過雪竇、定不歸鄉。
Thiền sư Bảo Ninh Dũng, người Tứ Minh. Ban đầu sư thay y phục đến nương bạn đồng đạo là thiền sư Tuyết Đậu Hiển. Tuyết Đậu quở sư là tọa chủ ỉu xìu. Dũng không chịu, cứ ấm ức. Nghi thức thượng đường vừa mãn, sư liền rời khỏi thiền viện, hướng về núi Tuyết Đậu lễ bái, thề rằng : Đời này hành cước tham thiền, nếu tôi tiếng tăm về đạo pháp không bằng Tuyết Đậu, nhất định không trở về quê.
BẾ NHÃN TÁC DẠ
閉眼作夜
Nhắm mắt lại rồi cho đó là màn đêm.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho hành vi ngu ngốc tự lừa dối.
Chương Nguyên Nghiễm Thiền sư trong CĐTĐL q. 19 ghi:
問:久處暗室、未遠其源、今日上來、乞師一接。師曰:莫閉眼作夜好。
(Tăng) hỏi: Lâu nay ở trong thất tối, chưa đạt cội nguồn, hôm nay đến đây xin Thầy tiếp cho. Sư bảo: Đừng nhắm mắt lại rồi cho đó là màn đêm nhé!
BẾ QUAN
閉關
Đóng cửa yên tu.
Sau khi ngộ rồi (phá được trùng quan), muốn bảo nhậm bản lai diện mục nên cần phải bế quan.
Bài 8 trong Sơn Cư Bách Vịnh của Thiền sư Tông Bản ghi:
山居茅瓦竹爲椽
守道安貧樂自然
盡日閉關無別事
長伸兩脚枕雲眠
Ở non tre lá kết am thiền
Cam nghèo giữ đạo thật an nhiên
Đóng cửa suốt ngày không việc khác
Gối đầu, duỗi cẳng ngủ bình yên.
BỆNH TĂNG KHẨU TỪ
病僧口詞
Di ngôn của vị tăng bệnh sắp thị tịch.
Trong tùng lâm, khi bệnh tình của vị tăng ngày càng nặng e khó sống, lúc sắp mạng chung nói lời di chúc gọi là Bệnh tăng khẩu từ. Khẩu từ này phần đông các bệnh tăng nói về dòng dõi quê quán của mình, người ghi phải chép hết thảy những gì được dặn dò về cách chỉnh lý, xử trí để làm bằng.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BỆNH TĂNG NIỆM TỤNG
病僧念頌
Còn gọi: Bệnh tăng giải thích.
Tụng niệm để hồi hướng công đức cầu nguyện cho vị tăng bị bệnh.
Trong tùng lâm, khi có một vị tăng bệnh nặng, nếu trên ba ngày không bớt thì phải dời vị ấy qua Diên Thọ Đường (nơi chăm lo trị bệnh và dưỡng bệnh). Lúc ấy, các vị tăng đồng hương quen biết cũ và cả chúng vì vị tăng bệnh ấy mà cầu nguyện cho bệnh nhân mau lành. Mọi sự niệm tụng, tán Phật, hồi hướng này gọi là Bệnh Tăng Niệm Tụng.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÍ MA KÌNH XOA
祕魔擎叉
Bí Ma chỉa nạng.
Công án Thiền tông, được ghi nơi tiết Ngũ Đài Bí Ma Nham Hòa Thượng trong NĐHN q. 4 như sau:
五臺山祕魔巖和尚、常持一木叉、每見僧來禮拜、即叉卻頸曰:那箇魔魅教汝出家?那箇魔魅教汝行腳?道得也叉下死、道不得也叉下死。速道!速道!
Hòa thượng Bí Ma Nham ở núi Ngũ Đài thường cầm một chiếc nạng gỗ. Mỗi khi thấy tăng đến lễ bái mình, sư liền chỉa chiếc nạng vào cổ tăng bảo: “Ma quỉ nào dạy ông xuất gia, Ma quỉ nào dạy ông hành cước? Nói được sẽ chết dưới chiếc nạng này, nói không được cũng chết dưới chiếc nạng này. Nói mau! Nói mau!”
Người học đạo ít có ai đáp được. Nhấc chiếc nạng chỉa vào cổ tăng là thủ đoạn tiếp dẫn người học rất mạnh mẽ, để cắt đứt con đường suy nghĩ, nói năng khiến họ thoát khỏi vọng tưởng phân biệt. Đời sau, trong thiền lâm thường niêm đề công án này.
BÍ MẬT
秘密
Tự tánh sâu kín khó hiểu, chẳng rơi vào ngôn ngữ văn tự, vượt khỏi ý thức phân biệt.
Thuật ngữ Thiền tông biểu thị sắc thái thần bí của tôn giáo.
LTNL ghi:
無形無相、無根無本、無住處、活潑潑地、應是萬種施設、用處只是無處。所以覓看轉遠、求之轉乖、號之爲秘密。
Không hình không tướng, không gốc không rễ, không chỗ trụ, thật là linh hoạt ứng ra muôn thứ lập bày, chỗ dùng chỉ là không có chỗ. Thế nên tìm đó thì càng xa, cầu đó thì càng trái, gọi đó là Bí mật.