B5

Posted by tranminhhuydn on Wed, 29/03/2017 59:06

BÁT BỔNG

八棒

Tám thứ gậy:

1. Giải lệnh chỉ huyền bổng: Gậy phạt.

2. Tiếp cơ tùng chính bổng: Gậy tiếp cơ, đáng đánh thì đánh.

3. Khảo huyền thương chính bổng: Gậy phạt người học ưa việc lạ lùng, dựa vào huyền diệu làm tổn thương chính lý.


4. Ấn thuận tông chỉ bổng: Gậy thưởng người học tương ưng với tông chỉ của Thầy.

5. Thử nghiệm hư thực bổng: Gậy không thưởng không phạt, vừa thấy liền đánh để thử sự tu hành của người học xem hư hay thực.

6. Manh gia hạt bổng: Gậy đánh bậy vì không sáng mắt. Đây là lỗi của Tông sư.

7. Khổ trách ngu si bổng: Gậy trách mắng người học ngu si.

8. Tảo trừ phàm thánh bổng: Gậy đánh để quét sạch phàm thánh.

BÁT CHỈ ĐẦU ĐÀ (1851-1912)

八指頭陀

Thiền sư cận đại, họ Hoàng, tên Kính An, tự Ký Thiền, người xứ Tương Đàm, Hồ Nam, Trung Quốc, nối pháp Thiền sư Hằng Chí.

Tác phẩm: Bát Chỉ Đầu-đà thi tập, 8 quyển; Tước Mai Ngâm Cảo, 1 quyển.

BÁT DIỆN LINH LUNG

八面玲瓏

Tám mặt long lanh.

Thành ngữ chỉ cho thủ thuật chu toàn khéo léo.

Trong bài tụng tắc 68 của BNL q. 7 ghi:

雙收雙放若爲宗(知他有幾人、八面玲瓏、將謂眞箇、有恁麼事。).

Song thâu song phóng nếu là chánh (Có mấy người biết ông ta có thủ thuật chu toàn khéo léo, tưởng đâu thật sự có việc như thế!).

BÁT HỎA MÍCH PHÙ ÂU

撥火覓浮

Bươi trong than lửa tìm bọt nước.

Thành ngữ chỉ cho việc làm điên đảo hoang đường.

Tiết Tư Không Bản Tịnh Thiền sư trong NĐHN q. 2 ghi:

道性如虛空、虛空何所修?遍觀修道者、撥火覓浮漚。

Tính đạo như hư không, hư không làm sao tu? Xem khắp kẻ tu đạo bươi trong than lửa tìm bọt nước.

BÁT MY

撥眉

Còn gọi: Bát my kích mục.

Vén lông mày

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho cách thị cơ trong nhà Thiền, là động thái ngữ khi ứng cơ của Thiền sư.

Tiết Long Quang Hòa thượng trong TĐT q. 12 ghi:

問:古人因星得悟、意作麼生?師以手撥開眉。

Hỏi: Người xưa thấy ngôi sao được ngộ, là ý làm sao? Sư lấy tay vén lông mày.

BÁT NHÃ ĐẦU

般若頭

Chức danh của vị sư trông coi việc đọc tụng kinh Bát-nhã và khuyến hóa sự đóng góp, cúng dường của đàn việt để làm tăng trưởng phước điền.

BÁT NHÃ PHONG

般若鋒

Mũi nhọn Bát-nhã. Vì trí huệ Bát-nhã sắc nhọn có khả năng đoạn sạch phiền não, nên được dụ cho mũi nhọn của gươm dáo.

CĐC ghi:

大丈夫秉慧劍,

般若鋒兮金剛焰。

Đại trượng phu cầm gươm huệ

Mũi nhọn Bát-nhã lóe sáng ngời.

BÁT NHÃ QUÁN CHIẾU

般若觀照

Dùng trí huệ Phật pháp để xem thấy các pháp đều không thật.

Đàn Kinh bản Đôn Hoàng ghi:

汝若不得自悟、當起般若觀照、剎那間、妄念俱滅、卽是自眞正善知識。

Nếu ngươi chẳng được tự ngộ, cần khởi bát-nhã quán chiếu, trong khoảng sát-na, vọng niệm đều diệt. Trí huệ đó chính là bậc Thầy chân chính của mình.

BÁT NHÃ TRỰC GIẢI

般若直解

Kinh sớ, 1 quyển, do Thanh Đàm Minh Chính (Thiền Sư Việt Nam) giải, Thanh Thành sao, Thanh Đức chép.

Nội dung bao gồm Lời tựa khắc kinh của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943. Lời tựa dẫn của Tỳ kheo Thanh Hanh vào năm thứ 9 (1933) Hoàng triều Bảo Đại. Tựa của ngài Minh Chính. Phần trực giải. Phần Kệ tụng gồm Mười tắc cương lĩnh; bốn phần “Tín, giải, hạnh, chứng” để chỉ dạy phương pháp tu trì chính pháp; hai mươi thiên hậu bạt để xiển dương công năng chí cực đốn liễu; bốn câu kệ Bát-nhã của Cổ đức; Duy tâm thức quán tứ trí luận của Bồ Tát Mã Minh; kệ Sáu căn bảy đại của Tổ Trúc Lâm Điều Ngự để diễn rộng tông chỉ của Tâm Kinh. Phần phụ lục là Huệ Năng Đệ lục tổ Lạc Đạo Ca. Sách này được khắc bản vào niên hiệu Thành Thái thứ 15 (1903).

BÁT QUÁI THIỀN TỰ

八卦禪寺

Thiền tự Bát Quái, nổi tiếng, nằm bên núi Bát Quái, làng Đào Nguyên, thành phố Chương Hóa, tỉnh Đài Loan, Trung Quốc.

Năm 1947 Dương Kim Đới cất am tranh năm gian nơi đây, gọi là “Phúc Hàm Đường”. Năm sau ông mất, trưởng tử Dương Đắc Ý kế nhiệm trụ trì đổi tên là “Bát Quái Tự”. Năm 1954 đổi tên là “Bát Quái Thiền Tự”. Năm 1966 xây cất mở rộng đại điện và chái nhà.

BÁT THẢO CHIÊM PHONG

撥草瞻風

Còn gọi: Bát thảo tham huyền.

Vạch cỏ đón gió.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc lặn lội tìm thầy học đạo hoặc việc trừ dẹp cỏ hoang vô minh, ngưỡng vọng huyền phong của Phật Tổ. Nghĩa là đoạn trừ vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu.

ĐSNL ghi:

此去澧陵攸縣、石室相連、有雲巖道人、若能撥草瞻風、必爲子之所重。

Từ đây đến Lễ Lăng ở huyện Du, nơi các thất đá liền nhau có một đạo nhân tên Vân Nham. Nếu ngươi có khả năng đoạn trừ vọng tưởng, tham cứu đến chỗ huyền diệu, chắc chắn sẽ được y ta quý trọng.

BÁT THIÊN

潑天

Hình dung từ nói cho hết cái lớn, cái thịnh.

Tiết Tây Thiền Thủ Tịnh Thiền sư trong NĐHN q. 20 ghi:

佛祖頂⿰宁頁〗上、有潑天大路。未透生死關、如何敢進步。

Trên đỉnh đầu của Phật Tổ, có đại lộ rất lớn. (Nếu) chưa thấu qua ải sinh tử làm sao dám bước lên?

BÁT THIÊN CHÍ KHÍ

撥天志氣

Chí khí ngất trời. Mô tả chí khí rất cao.

Tiết Thị Nghiệp Hải Tịnh Thiền sư trong MBTL q. trung ghi:

男子大丈夫、負一片撥天志氣、舍塵勞、離愛网、出叢林、入保社、單單爲一段生死無常极大事。

Bậc đại trượng phu mang một chí khí ngất trời, bỏ trần lao, lìa lưới ái, ra khỏi tùng lâm, vào bảo xã, chỉ vì một việc rất lớn là sinh tử vô thường.

BÁT TRƯỚC TIỆN CHUYỂN

撥著便轉

Búng nhằm liền xoay.

    Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho một khi được thiền sư khải phát (khêu gợi), người học lập tức lãnh hội.

Tiết Thị Dục Tạng Chủ trong DTNL q. 3 ghi:

你若是箇銅頭鉄額漢、撥著便轉、如師子兒向萬仞悬崖、一拶便解翻身、哮吼一聲、百獸腦裂、始有少分衲僧氣概。

Nếu ngươi là hạng căn cơ linh lợi, một khi được khải phát lập tức lãnh hội, như sư tử bên vực thẳm muôn trượng, bị bức bách liền biết phóng mình, rống lên một tiếng, trăm thú đều nhức óc, mới có chút ít khí khái của nạp tăng.

BÁT TỰ ĐẢ KHAI

字打開 

Mở toang ra như hình chữ BT; Khơng dấu dấu diếm, che đậy.

BNTG, phần thứ nhất ghi:

字打開分付了更    

 無餘事可呈君    

Tất cả mở toang giao phó hết

Còn gì đâu nữa để trình anh.

BÁT VÔ NHÂN QUẢ

撥無因果

Phủ định lý thuyết nhân quả báo ứng.

Phật giáo cho rằng đây là một loại tà kiến; nhà thiền cho lý thuyết nhân quả báo ứng chỉ là giáo thuyết thích ứng với cơ nghi nhất thời, pháp môn phương tiện của Phật, chứ không phải pháp môn cứu cánh triệt ngộ. Nhưng nếu chấp cố định không nhân quả thì cũng bị xem là chấp trước vọng tâm.

Bài tháp minh của Phụ Cát Tất trong MANL q. cuối ghi:

承虛接響。錯認話頭。撥無因果。生大我慢。卻墮邪見。

Tiếp lấy sự lý hư huyễn chẳng thật, lầm nhận thoại đầu, phủ định lý thuyết nhân quả báo ứng, sinh đại ngã mạn, lại rơi vào tà kiến.

BÁT VU TRƯỚC BÍNH

鉢盂著柄

Lắp thêm tay cầm vào chiếc bình bát.

Thuật ngữ chỉ cho việc làm dư thừa, phiền phức, rất đáng tức cười.

Tiết Long Môn Thanh Viễn Thiền sư trong NĐHN q. 19 ghi:

缽盂著柄新翻樣

牛上騎牛笑殺人

 Bình bát thêm quai đổi kiểu mới,

Cưỡi trâu tìm trâu đáng tức cười.

BẠT BẢN

拔本

1. Vớt vát lại tiền vốn.

2. Cứu vãn tổn thất.

BNL q. 1 ghi:

東邊落節、西邊拔本。

Bên đông bất lợi, bên tây vớt vát lại tiền vốn.

BẠT TIẾT TRỪU ĐINH

拔楔抽釘

Nhổ đinh tháo nêm.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc nhổ bỏ những chấp trước mê chướng, bỏ đi những pháp môn phương tiện.

MANL ghi:

入紅塵堆裏、逆順界中、與一切人和泥合水、拔楔抽釘、令他不覺不知、驀地見徹本心、悟其本性。

Vào cõi bụi hồng, trong chốn thuận nghịch, cùng với mọi người hòa bùn hợp nước, nhổ đinh tháo nêm, khiến họ từ chỗ chẳng tỉnh chẳng biết chợt thấy suốt bản tâm, ngộ được bản tính.

BẮC GIẢN CƯ GIẢN THIỀN SƯ NGỮ LỤC

北澗居簡禪師語錄

Còn gọi: Bắc Giản Hòa thượng ngữ lục, Bắc Giản ngữ lục.

Ngữ lục, 1 quyển, do Bắc Giản Cư Giản soạn vào đời Tống, Vật Sơ Đại Quan biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 121, trang 128.

Nội dung bao gồm ngữ lục của Cư Giản tại viện Bát-nhã ở Đài Châu, chùa Thiết Quan Âm ở Hồ Châu, chùa Viên Giác ở An Kiết Châu, chùa Huệ Nhật ở phủ Bình Giang, và các phần Tiểu tham, Bỉnh phất, Cáo hương phổ thuyết, Tụng cổ, Kệ tụng, Tiểu Phật sự. Có phụ lục lời tựa của các vị Thạch Khê, Tâm Nguyệt …

BẮC KINH THIÊN NINH TỰ

北京天寧寺

Chùa Bắc Kinh Thiên Ninh, nằm ngoài cửa Quảng An, khu Tuyên Vũ, thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc.

Sáng lập vào thời kỳ vua Hiếu Văn Đế (471-499) đời Bắc Ngụy. Ban đầu tên là “Quang Lâm Tự”. Niên hiệu Nhân Thọ thứ 2 (602) đời Tùy đổi tên là “Hoằng Nghiệp Tự”. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường đổi tên là “Thiên Vương Tự”. Niên hiệu Đại Định thứ 21 (1181) đời Kim lại gọi là “Đại Vạn An Thiền Tự”. Vào cuối đời Nguyên chùa bị thiêu hủy bởi binh lửa, điện vũ không còn. Chỉ còn một tòa tháp gạch đặc ruột xây dựng vào đời Liêu. Vào đầu đời Minh xây cất lại tự viện, niên hiệu Tuyên Đức thứ 10 (1435) đổi tên gọi như ngày nay. Niên hiệu Chính Thống thứ 10 (1445) mở giới đàn nơi đây, gọi là “Quảng Thiện Giới Đàn” mời thỉnh mười vị Tông sư. Mỗi năm vào hạ tuần tháng tư tập hợp tăng chúng thọ giới thuyết pháp, gọi là viên giới. Tương truyền lúc ấy tụ tập tăng ni gần một vạn người. Hiện còn điện vũ được trùng tu vào niên hiệu Càn Long thứ 21 (1756) đời Thanh.

BĂNG BÍCH LÃO NHÂN

冰壁老人

Hiệu của Thiền sư Duy Tắc đời Nguyên.

X. Duy Tắc.

BẰNG NGẠN (913-961)

朋彥

Thiền sư đời Ngũ Đại, họ Thái, người xứ Vĩnh Gia (nay là Ôn Châu, Chiết Giang) Trung Quốc, nối pháp Thiên Thai Đức Thiều Quốc sư. Thụy hiệu “Quảng Pháp Thiền sư”.

BẦN TỬ Y CHÂU

貧子衣珠

Viên ngọc quý trong áo kẻ nghèo khổ.

Thuật ngữ chỉ chúng sinh vốn có Phật tính.

Tiết Pháp Xương Ỷ Ngộ Thiền sư trong NĐHN q. 10 ghi:

祖師西來意、特唱此事。祇要時人知有。如貧子衣珠、不從人得。

Tổ sư từ phương Tây đến, đặc biệt đề xướng việc nầy, chỉ cần người đương thời biết rõ là họ giống như kẻ nghèo khổ cùng quẫn trên áo tự có ngọc quý, chẳng từ người khác mà được.

BẤT CẬP

不及

Không được, không bằng.

Cụm từ này đặt sau động từ nhằm nhấn mạnh giải thích hành vi động tác không có cách hoàn thành, hoặc không có cách đạt đến mục đích.

Tiết Thanh Lương Hưu Phục Thiền sư trong NĐHN q. 8 ghi:

問:如何是學人出身處?師曰:千般比不得、萬般況不及。

Tăng hỏi: Thế nào là chỗ xuất thân của học nhân? Sư đáp: Ngàn thứ so chẳng được, muôn thứ sánh không bằng.

BẤT DĨ NHI DĨ

不已而已

Bất đắc dĩ mà làm.

Tiết Ba Tiêu Kế Triệt Thiền sư trong NĐHN q. 9 ghi:

昔日如來於波羅柰國、梵王請轉法輪、如來不已而已、有屈宗風。

Ngày xưa Đức Phật ở tại nước Ba-la-nại, Phạm Vương thỉnh Phật thuyết pháp, Đức Phật bất đắc dĩ mà làm. Vì thuyết pháp về pháp môn phương tiện thì chưa đúng với Tông chỉ của Thiền.

BẤT DỊ

不易

Hỏi thăm, lời nói an ủi, tương đương với Tân khổ liễu (vất vả quá), Chân tân khổ (thật là nhọc nhằn).

Tiết Hoằng Nhẫn Hòa thượng trong TĐT q. 2 ghi:

師又去碓坊、便問行者:不易!行者、米還塾麼?

Sư lại đi xuống nhà giã gạo, lúc thuận tiện hỏi hành giả: Thật là nhọc nhằn! Hành giả, gạo đã trắng chưa?

BẤT ĐA AN LẠC

不多安樂

Bị bệnh.

Tiết Ngạc Châu Vô Đẳng Thiền sư NĐHN q. 3 ghi:

老僧三兩日來、不多安樂。大德身邊有甚麼藥物、與老僧些。

Hai ba bữa rày lão tăng bị bệnh, Đại đức có mang theo bên mình thuốc men gì cho lão tăng xin một ít.

BẤT ĐẢO ĐƠN

不倒單

Ban đêm không ngủ, ngồi kiết già một chỗ, hoặc niệm Phật hoặc tham thiền hoặc khán thoại đầu, bất kể ngày đêm. Đây là hạnh tu thiết yếu để liễu sinh thoát tử, chóng chứng Niết-bàn.

Tục Chỉ Nguyệt Lục ghi:

時值密雲悟繼席。執侍最久。嘗發願云。如今生不明此大事因緣。誓不倒單。晝夜端坐.

Gặp lúc Mật Vân Ngộ kế thừa pháp hội, làm việc đã rất lâu, từng phát nguyện rằng: Nếu như đời này không rõ được đại sư nhân duyên, thề bất đảo đơn, ngày đêm ngồi ngay ngắn.

BẤT ĐIỆT

不迭

Không ngớt, không dứt, đặt ở sau động từ.

Tiết Phù Dung Đạo Giai Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi:

道我四事具足、方可發心。祇恐做手腳不迭、便是隔生隔世去也。時光似箭、深爲可惜。

Nếu nói rằng tôi phải có đủ bốn sự cúng dường rồi mới phát tâm tu hành, chỉ e làm chuyện phi pháp không dứt thì đã chết đi rồi. Thời giờ nhanh chóng tợ tên bay, thật là đáng tiếc.

BẤT GIẢ

不假

Không cần, không phải.

ULL ghi:

本體本來是佛、不假修成

Bản thể xưa nay là Phật, không cần tu mới thành.

BẤT GIẢO ĐA

不較多

Na ná, chẳng khác mấy.

Tiết Quế Sâm Thiền sư trong CĐTĐL q. 21 ghi:

師問僧:什麼處來?曰:秦州來師却問:秦州豈不是出鸚鵡?僧曰:鸚鵡出在隴州。師曰:也不較多。

Sư hỏi tăng: Từ đâu đến đây? Đáp: Từ Tần Châu đến …. Sư lại hỏi: Tần Châu há không phải là nơi có nhiều chim vẹt sao? Tăng thưa: Chim vẹt sản suất ở Lũng Châu. Sư bảo: Cũng na ná.

BẤT HỨA DẠ HÀNH, ĐẦU MINH TU ĐÁO

不許夜行、投明須到

Không cho đi đêm, nhưng khi trời sáng phải đến.

Đây là lời nói lạ lùng mà Thiền sư thường dùng.

Tiết Phong Huyệt Diên Chiểu Thiền sư trong NĐHN q. 13 ghi:

問:百了千當時如何?師曰:不許夜行、投明須到。

Hỏi: Khi đã trăm ngàn ổn đáng thì thế nào? Sư đáp: Ban đêm không cho đi, nhưng khi trời sáng phải đến.

BẤT KHẢ TƯ NGHỊ

不可思議

Không thể nghĩ bàn.

Thuật ngữ chỉ cho sự lý tột cùng vi diệu, không thể tưởng tượng, khó dùng lời nói để diễn đạt.

Tiết Huệ Trung Quốc sư trong TĐT q. 3 ghi:

古德曰:青青翠竹盡是眞如、郁郁黃花無非般若。有人不許、是邪說、亦有人信、言:「不可思議」、不知若爲?

Cổ đức nói: Xanh xanh trúc biếc đều là chân như, rực rỡ hoa vàng không gì chẳng phải là Bát-nhã. Có người không chịu cho là tà thuyết, cũng có người tin, bảo là Bất khả tư nghị. Con không biết làm sao đây?

BẤT LẠC DANH NGÔN

不落名言

Chẳng rơi vào tên gọi, lời nói.

Thuật ngữ chỉ cho thiền pháp cùng danh từ khái niệm không có gì liên hệ, chẳng thể dùng ngôn ngữ văn tự để biểu đạt.

Phần Nghệ ngôn trong NHQL q. 29 ghi:

性休寂滅、不落名言、凡有指注、俱乖本色。

Thể tính vắng lặng không liên hệ gì đến danh từ khái niệm. Hễ có giải thích đều trái với bản sắc.

BẤT LẠC GIAI CẤP

不落階級

Không rơi vào thứ tự cấp bậc.

Thuật ngữ chỉ cho sự giác ngộ tức thì.

Tiết Phù Dung Đạo Giai Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi:

須知有一人、不從人得、不受教詔、不落階級。若識此人、一生參學事畢。

Phải biết có một người chẳng nhờ chỉ dạy mà biết, chẳng nhờ sách vở mà rõ, không rơi vào thứ tự cấp bậc. Nếu biết được người này, một đời tham học đã xong.

BẤT LẠC HỮU VÔ

不落有無

Chẳng rơi vào có không.

Chẳng sa vào trong nhận thức đối lập giữa có và không, tức không phân biệt sự vật là có hay không. Đây là phản ảnh tư tưởng Vạn pháp nhất như của Phật giáo.

Tiết Tư Quốc Đạo Ban Thiền sư trong NĐHN q. 8 ghi:

(僧)問:不落有無、請師道。

(Tăng) hỏi: Chẳng rơi vào có không, thỉnh sư nói cho.

BẤT LẠC THẦN VẪN

不落唇吻

Không rơi vào môi mép.

Thuật ngữ chỉ cho muốn lãnh ngộ thiền pháp thì chẳng nên sa vào lời nói nơi cửa miệng.

Tiết Long Hoa Hiểu Ngu Thiền sư trong NĐHN q. 12 ghi:

不落唇吻、一句作麼生道?

Một câu không rơi vào môi mép làm sao nói?

BẤT LẬP NGHĨA GIẢI

不立義解

Chẳng dính dáng đến việc giải thích ý nghĩa.

Thuật ngữ chỉ cho thiền pháp vượt khỏi lời nói, ý nghĩa, không cần so sánh, giải thích.

Bài tựa của Bùi Hưu trong ĐTTY ghi:

證之若無新舊、無淺深、說之者不立義解、不立宗主、不開戶牖、直下便是、動念卽乖、然後爲本佛。

Chứng đó, như không có mới cũ, không có sâu cạn. Nói đó, thì vượt khỏi lời nói ý nghĩa, không cần so sánh giải thích, chẳng lập tông chủ, chẳng mở phương tiện dẫn dắt, ngay bản thể thì phải, động niệm liền trái, rồi sau mới là bản Phật.

BẤT LẬP VĂN TỰ

不立文字

Chẳng dính dáng đến câu chữ.

Thuật ngữ chỉ cho việc lấy tâm truyền tâm, chứ không dùng chữ nghĩa.

Theo LĐHY q. 1 ghi:

世尊在靈山會上、拈花示衆、衆皆默然、唯迦葉破顏微笑。世尊道:吾有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、法門微妙、不立文字、教外別傳、付囑摩訶迦葉。

Trên hội Linh Sơn, Đức Thế Tôn đưa cành hoa sen lên khai thị đại chúng, đại chúng đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Đức Thế Tôn nói: Ta có kho tàng trí huệ là Niết-bàn diệu tâm. Thật tướng của nó thì vô tướng, là pháp môn vi diệu, không dính dáng đến câu chữ, có cách truyền khác ngoài kinh điển, phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.

BẤT LIỄU BẤT ĐÁNG

不了不當

Không hoàn tất, không thành công.

Thuật ngữ chỉ cho việc tham thiền chưa thành công.

Tiết Đãi Chế Phan Lương Quý Cư sĩ trong NĐHN q. 20 ghi:

久之不契、因訴曰:某只欲死去時如何?燈(指佛燈禪師)曰:好箇封皮、且留著使用。而今不了不當、後去忽被他換却封皮、卒無整理處。

Đã lâu mà không khế hợp nên thưa rằng: Lúc tôi muốn chết đi thì sao. Đăng (tức Phật Đăng Thiền sư) nói: Có tấm thân tốt, hãy lưu lại để dùng. Nhưng nay việc tham thiền chưa thành công, nếu như chết đi, rốt cuộc không có chỗ chỉnh lý.

BẤT LIỄU NGHĨA GIÁO

不了義教

Giáo pháp chẳng liễu nghĩa.

Thuật ngữ chỉ cho sự truyền dạy thông qua ngôn ngữ văn tự.

Tiết Ngữ Chi Dư, đời thứ ba dưới Đại Giám trong CTTNL q. 2 ghi:

但有語句、盡屬不了義教。

Hễ có lời nói đều thuộc về Bất liễu nghĩa giáo.

BẤT LY ĐƯƠNG XỨ

不離當處

Chẳng rời tại chỗ.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho thiền pháp ngay nơi bản thân mỗi người, không cần tìm cầu nơi khác.

Bài Tháp minh do Phụ Cát Tất viết trong MANL q. cuối ghi:

曹溪一滴。

源深流長

至於臨濟。

其道益張

如擊石火。

如閃電光

不離當處。

覿面承當

Giọt nước Tào Khê,

Nguồn sâu dòng dài.

Đến nơi Lâm Tế,

Đạo ấy hoằng khai.

Như đá lửa nháng,

Như ánh điện bay.

Chẳng rời tại chỗ,

Trước mặt nhận ngay.

view(804)