B4
BẢO CẢNH TAM MUỘI HUYỀN NGHĨA
寶鏡三昧玄義
Sách, 1 quyển, do Vân Ngoại Vân Tụ soạn vào đời Tống, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 222.
Vân Tụ đem Bảo Cảnh Tam Muội Ca chú thích tỉ mỉ để giải thích nguyên nghĩa vi diệu của nó. Sách này được phụ lục ở quyển hạ của Trùng Biên Tào Động Ngũ Vị Hiển Quyết.
BẢO CẢNH TAM MUỘI NGUYÊN TÔNG BIỆN MẬU
寶鏡三昧元宗辨
Sách, 1 quyển, do Vân Tông Tịnh Nột soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 279.
Tịnh Nột trình bày và phân tích bản nghĩa Bảo Cảnh Tam-muội, giải thích Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ của Vân Nham. Trình bày và giải thích về việc lấy Chính thiên của Động Sơn Lương Giới làm căn bản để lập Ngũ vị Công huân, Công huân của Tào Sơn Bản Tịch làm căn bản để lập Ngũ vị quân thần, Chính thiên Công huân của Thạch Sương làm căn bản để lập Ngũ vị Vương tử, mục đích nhằm hiển bày ý chỉ của “Bảo Cảnh Tam Muội Ca”.
BẢO CHƠN THIỀN VIỆN
寳眞禪院
Thiền Viện Bảo Chơn nằm trên núi Temple ở bang New Hampshire ở Hoa Kỳ.
BẢO CÔNG VIỆN
寶公院
1. Chùa Linh Cốc vào đời Đường gọi là Bảo Công viện.
X. Linh Cốc tự.
2. Đời Đường, vào niên hiệu Càn Phù (874-879), chùa Khai Thiện vâng lệnh vua đổi tên là Bảo Công viện.
X. Khai Thiện tự.
BẢO ĐÀM (1129-1197)
寶曇
Còn gọi: Thiếu Đàm.
Thiền sư đời Tống, họ Hứa, hiệu Thiếu Vân, người đời gọi sư là “Cát Châu Chí Nhân”, người xứ Long Du (nay là Đông Sơn, Tứ Xuyên) Trung Quốc. Sư nối pháp Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo.
Tác phẩm: Đại Quang Minh Tạng, 3 quyển.
BẢO GIÁC THIỀN SƯ
寶覺禪師
Thụy hiệu của Thiền sư Tổ Tâm đời Tống.
X. Tổ Tâm.
BẢO GIÁC THIỀN TỰ
寶覺禪寺
Thiền tự Bảo Giác, nằm ở thành phố Đài Trung, tỉnh Đài Loan, Trung Quốc.
Năm 1917 Phương trượng chùa Hậu Quả tỉnh Phúc Kiến là Hòa thượng Lương Đạt sáng lập nên chùa này. Năm 1963 khởi công xây dựng một tượng Phật Di Lặc cao gần 30m (88 xích) và bắt đầu lập ra tạp chí “Tân Giác Sinh” cùng nhà xuất bản Văn Hóa Phật Giáo Quốc Tế. Đây là một chùa nổi tiếng ở Trung bộ Đài Loan.
BẢO GIÁC TỔ TÂM THIỀN SƯ NGỮ LỤC
寶覺祖心禪師語錄
Còn gọi: Hoàng Long Hối Đường Tâm Hòa thượng ngữ lục, Hoàng Long Am Chủ ngữ lục, Hối Đường Hòa thượng ngữ lục.
Ngữ lục, 1 quyển do Hối Đường Tổ Tâm soạn vào đời Tống, Tử Hòa ký lục, Trọng Giới trùng biên. Nội dung gồm có: Những lời thượng đường của Tổ Tâm, Hỏi đáp thay trong thất, Cử cổ tắc trong thất, Kệ tụng. Sách này được xuất bản vào niên hiệu Nguyên Phong thứ 1 (1078) đời Tống và được xếp vào Hoàng Long Tứ Gia lục, q. 2.
BẢO GIÁC TỰ THÁP
寶覺寺塔
Tháp chùa Bảo Giác, nằm ở thành phố Đài Trung, tỉnh Đài Loan, Trung Quốc.
Năm 1928 tháp do Pháp sư Lương Đạt một Thiền sư tông Lâm Tế xây cất. Điện vũ trong chùa hùng vĩ tráng lệ. Tháp hình tròn, bảy tầng, mỗi tầng có thờ một tượng Phật Như Lai bằng bảy báu.
BẢO GIÁM (?-1173)
寶鑑
Thiền sư đời Lý, thuộc dòng Vô Ngôn Thông đời thứ 9, nối pháp Thiền sư Đa Vân. Sư họ Kiều tên Phù, quê ở làng Trung Thụy miền Bắc Việt Nam (nay thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây).
Thuở nhỏ học Nho, thông hiểu Thi, Thơ, Lễ, Dịch, chữ viết rất đẹp. Sư làm quan đến chức Cung hậu xá nhân đời Lý Anh Tông. Năm 30 tuổi, sư bỏ quan đến chùa Bảo Phúc quận Mỹ Lương thọ giáo xuất gia với Thiền sư Đa Vân. Tạng kinh trong chùa này do chính tay sư chép lại. Đến khi Thiền sư Đa Vân tịch, sư kế tiếp trụ trì chùa này. Đời sống của sư rất đạm bạc, suốt năm chỉ mặc áo gai thô sơ, trong mình không dính một sợi tơ. Công việc tu trì thì không bao giờ trễ nãi. Kệ thị tịch
智者猶如月照天
光含塵殺照無邊
若人要識須分別
嶺上扶疏鎖暮煙
Người trí khác nào trăng rọi không
Chiếu soi khắp cõi sáng khôn ngần
Nếu người cần biết, nên phân biệt
Khói mù man mác phủ non chiều.
BẢO HẢI THIỀN VIỆN
寳海禪院
Thiền viện tọa lạc ở khu phố 5, phường Long Tâm, thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Vào năm 1956 theo nghị định khẩn hoang lập ấp số 116 của tỉnh Phước Tuy, một số dân làng đã tụ tập về đây khai khẩn đất hoang, định cư lập nghiệp. Chính vì nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của người dân như thi sĩ Huyền Không đã viết:
Ngôi chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Thế là, ngôi chùa Bảo Hải được hình thành giữa ruộng đồng mênh mông nước.
+ Năm 1975, ngôi chánh điện nhỏ được dựng lên với vật liệu đơn sơ, mái tôn, vách ván.
+ Năm 1980 chùa được trùng tu lần thứ nhất, ngôi chánh điện được xây dựng lại với mái ngói, vách tường.
+ Năm 1994, nhận thấy toàn chùa đã xuông cấp nên Ban Hộ tự đã về thiền viện Thường Chiếu thỉnh thầy Kiến Chơn về trụ ở chùa để hương khói sớm hôm.
+ Năm 1996, vì tuổi già sức yếu, thầy Kiến Chơn về thiền viện Chơn Không Vũng Tàu để tu dưỡng và sư cô Thích Nữ Hạnh Bình được suy cử về trụ trì nơi đây.
+ Năm 2005, theo kế hoạch chỉnh trang đô thị của thị xã Bà Rịa, nhà nước di dời toàn bộ ngôi chùa cũ qua đất mới. Đây là đợt đại trùng tu trong thời hạn 2005-2010. Đến nay, các kiến trúc như: Chánh điện, Tổ đường, thư viện, lớp học, tường rào, trai đường, nhà bếp đã hoàn thành. Trụ trì: Thích Nữ Hạnh Bình, Giáo thọ: Thích Nữ Như Vân, Tri sự: Thích Nữ Như Hoa.
BẢO HẠNH
寶行
Thiền sư đời Lê trung hưng, thuộc tông Lâm Tế đời thứ 35, nối pháp thiền sư Minh Hoằng Tử Dung. Sư húy là Thiệt Vinh, hoằng hóa ở chùa Viên Tịnh, Khánh Hòa thuộc Đàng Trong, Việt Nam.
Theo: Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
BẢO HOA NGỌC THẠCH THÁP
寶華玉石塔
X. Đại Bảo Quang tháp.
BẢO HOA SƠN CHÍ
寶華山志
Bài văn viết về núi Bảo Hoa, 15 quyển, do Lưu Danh Phương soạn vào đời Thanh. Núi Bảo Hoa nằm ở huyện Cú Dung, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
Tương truyền nơi đây là đạo tràng của Thiền sư Bảo Chí, do vì lâu đời nên bị hoang phế. Mãi đến niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) đời Minh, thiền sư Diệu Phong xây điện bằng đồng đặt tên là “Thánh Hóa Long Xương Tự”. Khoảng niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, được sắc tứ là “Huệ Cư Tự”, do đây mà nổi tiếng ở đời. Khi ấy có Lưu Danh Phương soạn sơn chí, chia làm 24 loại Sơn đồ, hình thắng, tinh dã, sơn thủy, kiến trí, cổ tích, linh dị, cao tăng, luật sư, bi minh, bi ký, tháp minh, chiếu sắc, tấu sớ, công di, ký, phú, tự, truyện, tán, khảo, thư, khải, thi. Tuy sách này có tên là Sơn chí nhưng kỳ thực vì Huệ Cư Tự mà làm, có khắc bản vào đời Thanh.
BẢO KIM (1308-1372)
寶金
Thiền sư sống vào cuối đời Nguyên - đầu đời Minh, họ Thạch, người xứ Vĩnh Thọ Càn Châu (nay thuộc Thiểm Tây) Trung Quốc. Vua nhà Nguyên ban cho sư hiệu “Tịch Chiếu Viên Minh”. Sư nối pháp Thiền sư Như Hải.
BẢO LÂM TRUYỆN
寶林傳
Còn gọi: Đại Đường Thiều Châu Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện, Tào Khê Bảo Lâm truyện, Song Phong Sơn Tào Khê Bảo Lâm truyện.
Truyện chùa Bảo Lâm, 10 quyển, do Trí Cự soạn vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ 17 (801) đời Đường, được xếp vào “Tống Tạng Di Trân”. Chùa Bảo Lâm ở Tào Khê, Thiều Châu là đạo tràng của Tổ Huệ Năng tuyên dương Thiền pháp nên lấy đây làm tên sách để làm sáng tỏ pháp thống của Ngài. Nội dung gồm có những tác phẩm về lịch sử Thiền tông như Đàn Kinh, Ngũ Minh tập, Tục Pháp truyện, Quang Xán lục, Lịch Đại Pháp Bảo ký, chủ trương có sự truyền thừa của 28 vị Tổ. Sau đó còn có Tổ Đường tập, Cảnh Đức Truyền Đăng lục, nhằm xác định chỗ truyền của thuyết 28 vị Tổ. Trí Cự viết sách này nhằm mục đích luận giải rõ ràng về sự quan hệ giữa Tôn giả Sư Tử và Bồ-đề Đạt-ma. Thế nên, khi sách này ra đời thì bị các thiền sư đời sau viết sách chê trách.
BẢO LÂM TỰ
寶林寺
X. Nam Hoa Tự.
BẢO LIÊN TỰ
寶蓮寺
Chùa Bảo Liên, nằm lưng chừng núi Đại Dữ, Hồng Kông, Trung Quốc.
Xung quanh có núi Phụng Hoàng, Di Lặc, Liên Hoa, Mộc Ngư, Sư Tử Đầu. Vốn được gọi “Hồng Kông Đệ Nhất Thiền Lâm”. Khoảng niên hiệu Tuyên Thống (1909-1911) đời Thanh hai vị Thiền sư Đại Duyệt và Đốn Tu từ Kim Sơn, Giang Tô đến đây khai sơn. Năm 1924 Hòa thượng Kỷ Tu chùa Giang Thiên, Kim Sơn đến đây đảm nhiệm trụ trì, đặt tên là “Bảo Liên Tự”, năm sau khởi công xây dựng Đại điện. Năm 1930 Hòa thượng Phiệt Khả kế nhiệm trụ trì mở rộng xây dựng trước sau hoàn thành Địa Tạng điện, Tổ đường, Ngũ quán đường, Bát nhã thiền đường. Năm 1969 khánh thành Đại hùng bảo điện, khí thế hào hùng. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng ở Đông Nam Á.
BẢO NHẬM
保任
Sau khi ngộ thiền, còn cần phải gìn giữ, củng cố kết quả tu hành, gọi là Bảo nhậm.
Tiết Hoa Dược Trí Bằng Thiền sư trong NĐHN q. 14 ghi:
師豁然有省。乃曰:元來恁麼地。成(指枯木成禪師)曰:汝作麼生會?師曰:春生夏長、秋收冬藏。成曰:直須保任。師應喏。
Sư vô cùng tỉnh ngộ và nói: Hóa ra thế ấy. Thành (chỉ thiền sư Khô Mộc Thành) bảo: Ngươi hội cái gì? Sư đáp: Mùa xuân gieo hạt, mùa hạ lớn lên, mùa thu gặt hái, mùa đông cất chứa. Thành bảo: Nhất thiết phải bảo nhậm. Sư ứng thanh: Dạ.
BẢO NINH TỰ
保寧寺
Chùa Bảo Ninh, nằm trong thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.
Được xây cất vào niên hiệu Xích Ô thứ 4 (241) đời Đông Ngô thời Tam Quốc. Thời Nam triều Lưu Tống chùa tên “Kỳ Viên Tự”. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường đổi tên là “Trường Khánh Tự”. Khoảng niên hiệu Bảo Đại (943-957) đời Nam Đường lại đổi tên là “Phụng Tiên Tự”. Khoảng niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) đời Tống vua ban cho tấm biển “Bảo Ninh Tự”, đương thời trong chùa có những kiến trúc như Phụng hoàng đài, Bạch tháp, Quán Âm điện, La hán đường, Thủy lục đường, tăng chúng ước khoảng 500 người. Niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1117) vua ban sắc đổi tên là “Thần Tiêu Cung”. Niên hiệu Kiến Viêm thứ 1 (1127) khôi phục tên cũ. Niên hiệu Kiến Viêm thứ 3 (1129) vua Cao Tông làm thành hành cung, chùa bị phá hủy. Pháp Dung, Tổ của tông Ngưu Đầu đời Đường đã từng trụ ở chùa này hưng thịnh một thời. Về sau các vị cao tăng trụ trì có Phụng Tiên Huệ Đồng, Bảo Ninh Nhân Dũng, Cổ Lâm Thanh Mậu.
BẢO PHÁC (thế kỷ XIV)
寶朴
Thiền sư đời Trần, thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đời thứ 2, Việt Nam.
Sư là người phụ giúp Giác Hoàng trong việc tổ chức và xây dựng phái thiền Trúc Lâm khi mới thành lập. Sau được vua Trần Anh Tông phong làm Quốc sư.
Theo: Thiền Uyển Tập Anh.
BẢO PHÚC TỰ
保福寺
Chùa Bảo Phúc, ở núi Đại Mai, huyện Ngân, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Niên hiệu Khai Thành thứ 1 (836) đời Đường, Thiền sư Pháp Thường kết am tranh ở nơi đây, về sau dần dần trở thành thiền vũ, ban đầu tên là “Kim Văn Viện”. Thời Tống Nhân Tông xây cất lại đổi tên là “Huệ Chiếu Tự”. Thời Nam Tống còn gọi là “Bảo Phúc Tự”.
BẢO PHÚC VIỆN
保福院
Viện Bảo Phúc, nằm trong núi Bảo Phúc, huyện Long Khê, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Niên hiệu Trinh Minh thứ 3 (917) đời Hậu Lương, Thứ sử Chương Châu là Vương Công Khâm sáng lập. Tổ sư khai sơn là ngài Tùng Triển, pháp tự của Tuyết Phong Nghĩa Tồn trụ ở núi này hơn 12 năm, kẻ học đạo tụ tập thường hơn 700 người. Niên hiệu Thiên Thành thứ 3 (928) Tùng Triển thị tịch. Về sau lần lượt có các vị cao tăng trụ trì như Siêu Ngộ, Khả Trù, Thanh Khoát hoằng dương tông môn.
BẢO PHƯƠNG
寶方
Thiền sư đời Minh, đắc pháp nơi Thiền sư Di Phong Ninh, cơ phong bén nhạy.
BẢO QUANG TỰ
寶光寺
Còn gọi: Bảo Quang Thiền Viện.
Chùa Bảo Quang, nằm ở phía Bắc trung tâm huyện Tân Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
Tương truyền được xây cất vào thời Đông Hán, đời Tùy tên là “Đại Thạch Tự”. Niên hiệu Quảng Minh thứ 2 (881) đời Đường, vua Đường Hy Tông vì tránh nạn Hoàng Sào khởi nghĩa mà chạy đến Tứ Xuyên dừng chân nơi đây, ở phía sau chùa tu tạo hành cung, sai Quốc sư Ngộ Đạt trùng tu tự viện và tháp xá-lợi, đổi tên là “Bảo Quang Tự”. Đến đời Tống khi Thiền sư Viên Ngộ trụ trì thì tăng chúng có trên 3000 người. Đây là thời kỳ hưng thịnh nhất từ khi cất chùa đến nay. Cuối đời Minh chùa bị binh lửa thiêu hủy. Niên hiệu Khang Hy thứ 9 (1670) đời Thanh xây dựng lại. Từ đây về sau trải qua 200 năm lần lượt xây dựng mở rộng, tự viện điện đường càng thêm hùng vĩ tráng lệ, xanh vàng rực rỡ. Chiếm diện tích 9 ha, trong đó diện tích kiến trúc hơn 2 ha. Trên tuyến trục giữa y theo thứ lớp có những kiến trúc như Bức tường bình phong chữ “Phúc”, Sơn môn điện, Xá-lợi tháp, Thất Phật điện, Đại hùng bảo điện, Tàng kinh lâu. Hai bên có lầu chuông trống, nhị bài phòng, hành lang tả hữu, phương trượng bảo đông tây; ngoài ra còn có 16 tòa Tứ hợp viện liên tiếp với nhau. Nghi: quỹ Thiền tông đầy đủ như Thiền đường, Giới đường, Pháp đường, Trai đường, là nơi tập trung hiển bày phong cách cùng diện mạo thiền tự.
BẢO SÁT (thế kỷ XIII)
寶剎
Thiền sư đời Trần, thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, đời thứ 2, Việt Nam.
BẢO SỞ
寶所
Chỗ quý báu. Thuật ngữ chỉ cho cảnh giới cao tột của Đại thừa, tức thành Phật.
Tiết Tục Nghệ Ngôn trong NHQL q. 30 ghi:
若能如是用心、則寶所在近、決不相賺。
Nếu dụng tâm được như thế thì gần đến Bảo sở, quyết chẳng dối gạt nhau.
BẢO THANH (1752-1859)
寶清
Thiền sư đời Nguyễn, thuộc tông Lâm Tế đời thứ 40, nối pháp Thiền sư Tính Thông Giác Ngộ. Sư húy Hải Chính, người Việt Nam.
Sư lập chùa Vân Sơn, trông coi chùa Long Bàn (Bà Rịa) và chùa núi Chứa Chan (Long Khánh).
Theo: LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức.
BẢO THÔNG
寶通
Hiệu của Thiền sư Đại Điên đời Đường.
X. Đại Điên.
BẢO THÔNG TỰ
寶通寺
Chùa Bảo Thông, nằm ở phía Nam sườn núi Vũ Xương Hồng Sơn, thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Là một trong bốn đại tùng lâm ở Vũ Hán. Nguyên tên là “Sùng Ninh Vạn Phật Thiền Tự”, được xây cất vào khoảng niên hiệu Đoan Bình (1234-1236) đời Tống. Khoảng niên hiệu Đại Đức, Chí Thuận (1297-1333) đời Nguyên từng nhiều lần mở rộng xây dựng. Niên hiệu Hồng Vũ thứ 6 (1373) đời Minh vua Sở Chiêu Vương sửa sang xây cất lại. Niên hiệu Thành Hóa thứ 21 (1485) đời Minh, đổi tên là “Bảo Thông Thiền Tự”. Nhân Đại sư Từ Nhẫn cúng dường “Phật túc” (Bàn chân đức Phật) cho chùa đem từ núi Đại Hồng, Tùy Châu sang nên còn gọi “Hồng Sơn Tự”. Niên hiệu Khang Hy thứ 15 đến 30 (1676-1691) mô phỏng theo các chùa lớn ở Tây Sơn, Bắc Kinh mà xây cất lại hùng vĩ tráng lệ, được coi là giàu có và đẹp đứng vào bậc nhất thiên hạ. Niên hiệu Hàm Phong thứ 2 (1852) bị phá hủy bởi binh lửa. Hiện chỉ còn kiến trúc vào niên hiệu Quang Tự thứ 5 (1879) xây cất lại, chủ yếu có Sơn môn, Ao phóng sinh, Cầu thánh tăng, Điện tiếp dẫn, Điện thờ phụ hai bên, Đại hùng bảo điện, Tổ sư điện, Thiền đường, Thiết Phật điện, Tàng kinh các. Những kiến trúc này vừa hiên ngang vừa tĩnh mịch nhấp nhô theo thế núi ẩn hiện tự nhiên. Văn vật còn lại trong chùa gồm có một đại hồng chung đúc vào khoảng niên hiệu Gia Hy đời Tống (1237-1240), một đôi sư tử bằng đá điêu khắc vào đầu đời Minh. Phía sau chùa có tháp Hồng Sơn thấp thoáng giữa tùng bách xanh tươi.
BẢO TÍCH
寶積
Thiền sư đời Đường, nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất, thụy hiệu “Ngưng Tịch Đại Sư”.
BẢO TÍCH TỰ
寶積寺
Chùa Bảo Tích.
1. Chùa nằm ở thị trấn Cảnh Đức, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.
Khoảng niên hiệu Đại Trung (847-859) đời Đường tăng nhân U Công sáng lập. Thiền sư Liễu Nguyên đời Tống xuất gia nơi đây, sau khi vân du đến Kinh Sư, vua Tống Thần Tông ban hiệu “Phật Ấn”. Từng kết thi thiền xã với Tô Thức, Hoàng Đình Kiên. Hai họ Tô, Hoàng cũng từng đi lại chùa Bảo Tích. Phật Ấn có làm thơ rằng “Dữ quân cộng kết thi thiền xã/ hà nhật tùng quan thoại thử tâm” (Cùng anh đồng kết thi thiền xã/ thoải mái ngày nào nói về tâm.) Người đời sau xây cất “Tam Hiền Đường” ở phía sau chùa để thờ cúng. Cuối đời Nguyên chùa bị phá hủy, niên hiệu Hồng Vũ thứ 17 (1384) đời Minh được trùng tu. Cuối đời Minh binh loạn tăng tán, chùa chiền bị sụp lở. Niên hiệu Thuận Trị thứ 7 (1650) đời Thanh, Tri huyện Lâu Duy Tung mời tăng nhân Phổ Tĩnh tu sửa lại và đem những cây bách khô còn sót lại sau hỏa hoạn do ngài Phật Ấn trồng mà điêu khắc thành tượng Tam Hiền. Đời Thanh thi nhân Uông Ứng Triệu có làm thơ vịnh về việc này như sau “Cổ tự vân phong trụ Liễu Nguyên/ Tô, Hoàng lưu ngụ đáo kim truyền/ cố nhân khởi ý nạp y tặng/ kỷ ảnh ưng thiêm bách tử thiền” (Mây phủ chùa xưa trụ Liễu Nguyên/ Tô, Hoàng lưu ngụ đến nay truyền/ Cố nhân đâu muốn nạp y tặng/Lưu ảnh những thẹn bách tử thiền). Hiện nay chỉ còn ba tấm bia đá khắc sự tích Phật Ấn và chùa Bảo Tích.
2. Chùa nằm ở phía Bắc của Tào Sơn, huyện Nghi: Hoàng, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.
Khoảng niên hiệu Càn Ninh (894-897) đời Đường Tào Sơn Bản Tịch sáng lập, tên gốc là “Hà Ngọc Quán” tên khác là “Sùng Thọ Viện”. Đời Tống vua ban cho tấm biển “Bảo Tích Tự”. Đệ tử nối pháp của Bản Tịch là Huệ Hà cũng trụ ở chùa này.
BẢO TÍNH (?-1034)
寶性
Thiền sư đời Lý, thuộc dòng Vô Ngôn Thông đời thứ 7, nối pháp Thiền sư Định Hương. Sư họ Nghiêm, quê ở Châu Minh, miền Bắc Việt Nam.
Sư hoằng hóa ở chùa Cảm Ứng trên núi Ba Sơn, phủ Thiên Đức (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Theo: Thiền Uyển Tập Anh.
BẢO TRIỆT
寶徹
Thiền sư đời Đường, trụ núi Ma Cốc, nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất.
BẢO ỨNG THIỀN SƯ
寶應禪師
Thiền sư Huệ Ngung đời Ngũ Đại, trụ viện Bảo Ứng, người đời gọi là Bảo Ứng Thiền sư.
X. Huệ Ngung.
BẢO VĂN ĐẠI SƯ
寶聞大師
Hiệu của Thiền sư Duy Kính đời Ngũ Đại.
X. Duy Kính.
BÃO KIỀU TRỤ THÁO TẨY(1)
抱橋住操洗
Còn gọi: Bão Xuân đả phách phù(2)
(1)Hai tay ôm chặt cột cầu mà muốn cọ rửa.
(2)Hai tay ôm chặt cây Xuân mà muốn đi chơi.
Hành động phi lý.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người muốn được lãnh ngộ tự tâm mà cứ chấp chặt giáo điều thì khó thành tựu sở nguyện.
今時人猶尚抱橋柱澡洗、把纜放船。
Người thời nay thật câu nệ, chẳng khác nào kẻ ôm cột cầu mà muốn tắm rửa, nắm dây lõi mà định xô thuyền đi.
BÃO PHÁC (?-1629)
抱樸
Thiền sư đời Minh, họ Lạc, người xứ Lâm An (nay thuộc tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc.
Năm 15 tuổi, sư đến chùa Diệu Nghiêm cạo tóc làm tăng. Năm 22 tuổi đến chùa Vân Thê thọ giới Cụ túc. Ít lâu sau sư ở ẩn trong núi Kính Sơn. Một hôm, sư bỗng rỗng rang thấu suốt, liền đến Kinh Khê, thưa hỏi thiền sư Chính Truyền nhờ ngài ấn chứng; làm truyền nhân tông Lâm Tế. Tác phẩm: Thiền Tông Khải Mông.
BÃO TANG KHIẾU KHUẤT
抱贓呌屈
Tay ôm tang vật mà miệng kêu oan.
Thành ngữ chỉcho sự chối cãi và biện giải hết sức vụng về, đáng buồn cười.
Tiết Trí Hải Đạo Bình Thiền sư trong NĐHN q. 12 ghi:
古人恁麼說話、大似抱贓呌屈。
Người xưa nói như thế thật giống như tay ôm tang vật mà miệng kêu oan.
BÃO TÙNG LÂM
飽叢林
Đối lại Thiếu tùng lâm.
Còn gọi: Cửu tham, lão tham, cựu tham.
1. Người tham thiền học đạo lâu năm (d. từ)
2. Tham thiền học đạo một cách lâu dài (đ. từ).
CTTNL q. 39 ghi:
所以趙州八十尚自行脚、祇是要飽叢林、又且不擔板。
Sở dĩ ngài Triệu Châu 80 tuổi vẫn còn hành cước, chỉ vì muốn tham thiền tu tập một cách lâu dài và để cái thấy của mình không còn bị giới hạn.
BÁT
潑
Xấu xa, hư hỏng.
Từ phản nghĩa của chữ Hảo
好.
Tiết Thái Dương Huyền Thiền sư trong NGCTT q. 3 ghi:
聲色堆頭、强說有出身之路、非央庠座主、誰受你破皮履、潑禪衣?
Trong đống thanh sắc gượng nói có con đường xuất thân. Nếu không phải là giảng sư dở dở ương ương thì ai làm cho ngươi phải chịu rách giày hư áo? (Hành cước vất vả).
BÁT BẢO NGỌC THẠCH THÁP
八寶玉石塔
Tháp Bát Bảo Ngọc Thạch, nằm trong khuôn viên Thảo Đường Thiền Tự cách trung tâm huyện Hộ, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc 20km về phía đông nam. Tháp do ngọc thạch tám màu trắng, xanh, đen, vàng, hồng, lam, tía, xám điêu khắc khảm nạm làm thành, ngọc bóng lóa mắt, ánh sáng có thể soi người cho nên gọi là “Bát Bảo Ngọc Thạch Tháp”.
Thân tháp tổng cộng cao 2,33 m, hình bát giác 12 tầng. Tầng đáy tháp là tòa núi Tu-di có khắc nổi. Thân tháp điêu khắc ô cửa sổ, cửa hai cánh. Dưới mái che đỉnh tháp có khắc chìm nhiều tượng Phật. Tháp này tạo dáng xinh xắn kì đặc, toàn thân tháp được khắc hoa văn, Phật tượng cũng rất tinh mỹ. Tương truyền xá-lợi của ngài Cưu-ma-la-thập được đặt dưới tháp.