B3

Posted by tranminhhuydn on Wed, 29/03/2017 49:06

BẢN NGUYỆT (1602-1676)

本月

Thiền sư đời Minh, họ Tôn, tự Lữ Am, người Tú Thủy (nay là huyện Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang) Trung Quốc.


Thuở bé xuất gia, đầu tiên tham học nơi ngài Thông Tú nhưng chưa triệt ngộ; về sau sư tham yết ngài Đạo Mân được nối pháp ngài. Sư phụng sắc trụ trì các chùa Thiện Hưng, Phụng Thánh, Long Trì. Về già, sư ở chùa Cửu Phong tại Tùng Giang. Người đời gọi sư là Lữ Am Nguyệt, có ngữ lục lưu hành ở đời. Theo phả hệ sư là Tổ Thiền tông đời thứ 42, Nam Tông đời thứ 37, hệ Nam Nhạc đời thứ 36, tông Lâm Tế đời thứ 32, phái Dương Kỳ đời thứ 25, phái Mật Am đời thứ 19.

BẢN NHƯ (695-750)

本如

Thiền sư đời Đường, họ Kim, người nước Tân La (nay là Triều Tiên).

Khi vua Huyền Tông lên ngôi, sư theo sứ giả nước Tân La vào Trung Quốc (sang chúc mừng vị vua mới đăng quang). Qua sự giới thiệu, sư đến Nam Nhạc thờ ngài Hoài Nhượng làm thầy, hầu hạ cho đến khi thầy mất. Sư đi thưa hỏi các bậc danh túc các nơi. Niên hiệu Thiên Bảo thứ 6 (747) sư về nước, hoằng truyền tâm pháp Tào Khê.

BẢN PHẬN

本分

1. Sự việc cốt lõi đối với bản thân một người.

Tiết Điểu Khòa Hòa thượng trong TĐT q. 3 ghi:

雖然如此、出家自有本分事。作麼生是和尚本分事?

Mặc dù như thế, xuất gia tự có việc bản phận. Thế nào là việc bản phận của Hòa thượng?

2. Quen tay thạo việc, lão luyện.

MGNL q. 1 ghi:

若云言中有响、句裏呈機、猶曲爲中下之流、向本分衲僧、遠之遠矣!

Nếu nói trong lời có vang, trong câu trình cơ, cũng còn là phương tiện tiếp dẫn hàng trung hạ, đối với nạp tăng lão luyện quả còn cách xa lắm vậy.

BẢN PHẬN KIỀM CHÙY

本分鉗錘

Kiềm: Kìm

Chùy: Búa. Là những dụng cụ của người thợ rèn.

Thuật ngữ chỉ cho thủ thuật mạnh bạo của thiền sư khi tiếp dẫn người học.

KDTNL q. 2 ghi:

發明之後、更須就作家爐鞴、本分鉗錘、鍛煉一回、無絲毫滲漏、方許得解粘去縛。

Sau khi phát minh còn phải vào lò rèn của người thợ giỏi, để ông ta dùng thủ đoạn mạnh bạo, trui luyện một phen, không còn một chút rò rỉ nào mới chịu cho rằng ngươi đã thoát khỏi mọi dính mắc.

BẢN PHẬN NHÂN

本分人

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho thiền nhân lão luyện.

BNL q. 1 ghi:

若是本分人到這裏、須是有驅耕夫之牛奪饑人之食底手脚、方見馬大師爲人處。

Nếu là thiền nhân lão luyện đến chỗ này cần phải có thủ thuật đuổi trâu của người cày, đoạt cơm của kẻ đói, mới thấy được chỗ vì người của Mã đại sư.

BẢN PHẬN SỰ

本分事

1. Việc phần gốc.

Việc quan trọng bên trong bản thân của thiền nhân, chỉ cho việc đạt được thiền ngộ, siêu thoát sinh tử.

Chương Điểu Khòa Hòa thượng trong TĐT q. 3 ghi:

人(指白居易)歸京、入寺遊戲、見僧念經、更問:甲子多少?對曰:八十五。進曰:念經得幾年?對曰:六十年。舍云:大奇!大奇!雖然如是、出家自有本分事。作麼生是和尚本分事?僧無對。

Xá nhân (chỉ Bạch Cư Dị) trở về kinh, vào chùa vãng cảnh, thấy tăng tụng kinh, liền hỏi: Sư được bao nhiêu tuổi? Vị tăng đáp: Tám mươi lăm. Lại hỏi: Tụng kinh được mấy năm. Vị tăng đáp: Sáu mươi năm. Bạch Cư Dị nói: Rất hay! Rất hay! Mặc dù như vậy, xuất gia tự có bản phận sự. Cái gì là bản phận sự của Hòa thượng? Tăng không đáp được.

2. Thủ thuật của thiền sư tài giỏi.

BNL q. 1 ghi:

此是大手宗師。不與你論玄論妙論機論境、一向以本分事接人。

Đây là bậc thiền sư cao thủ, không bàn luận huyền diệu, cơ cảnh với người mà chỉ một bề dùng Bản phận sự để tiếp dẫn người.

BẢN PHẬN THẢO LIỆU

本分草料

Giở ngón sở trường.

Phần Bình của tắc 15 trong VMQ ghi:

雲門當時便與本分草料使洞山別有生機一路、家門不致寂寥。

Vân Môn bấy giờ giở ngón sở trường khiến Động Sơn mở riêng được con đường sống, tông môn không đến nỗi đìu hiu.

BẢN PHẬT

本佛

Phật gốc. Phật vốn có sẵn. Chỉ cho Phật tính.

ĐTTY ghi:

言寶所者、乃眞心本佛自性之寶。

Nói bảo sở đó, là cái quý báu của tự tính, của chân tâm bản Phật.

BẢN SẮC ĐẠO NHÂN

本色道人

Thiền sư chân chính.

Khai thị Bản sắc đạo nhân trong MBTL q. trung ghi:

要做本色道人別無他巧便,单单只要不惜身命,忘死向前,猛做一回,做到者力不得處,用心不得時,正好用心,久久與麼挨,與麼行十个有五雙管取心空及第去。. .

Cần làm thiền tông chân chính, đặc biệt chớ dùng phương tiện nào khác, chỉ cần mỗi một việc là chẳng tiếc thân mạng, xem thường cái chết, tiến bước tới trước, dũng mãnh một phen, làm đến chỗ suy nghĩ chẳng được. Lúc suy nghĩ chẳng được chính là chỗ dụng tâm tốt nhất. Bị bức ngặt thế ấy, thực hành thế ấy một thời gian lâu, chỉ lo giữ tâm không, liền được đỗ đạt.

BẢN SẮC KIỀM CHÙY

本色鉗錘

Bản sắc cứng cỏi như cái kìm, cái búa của thợ rèn.

Thuật ngữ chỉ cho bản lĩnh vững vàng của bậc Thiền sư chính tông.

TLTBT q. 22 ghi:

慧南有道之器也、惜未受本色鉗錘耳。

Huệ Nam là người có năng lực để kiến tính, nhưng tiếc là chưa gặp được Thiền sư chính tông mà thôi!

BẢN TÀI

本才

Thiền sư đời Tống, họ Diêu, hiệu Phật Tâm, người đời thường gọi “Phật Tâm Bản Tài”, nối pháp Thiền sư Linh Nguyên Duy Thanh, tông Lâm Tế.

Tác phẩm: Phật Tâm Tài Hòa thượng ngữ yếu, 1 quyển.

BẢN TÂM

本心

Tâm cội nguồn, tâm vốn có sẵn. Chỉ Phật tính của mọi người sẵn có xưa nay.

Đàn Kinh bản Đôn Hoàng ghi:

不識本心、學法無益。

Không biết bản tâm, học pháp vô ích.

BẢN THIỆN (?-1482)

本善

Thiền sư đời Minh, họ Ngô, hiệu Độc Phong, người xứ Phong Dương (nay thuộc An Huy) Trung Quốc, nối pháp Thiền sư Nguyệt Khê Trừng.

Tác phẩm: Độc Phong ngữ lục.

BẢN THIẾP (1517-1570)

本帖

Thiền sư đời Minh, họ Dương, hiệu Định Đường, người xứ Tầm Điện (nay thuộc đông bắc Tung Minh, Vân Nam) Trung Quốc, nối pháp Hòa thượng Bạch Trai.

BẢN THỤY (1433-1513)

本瑞

Thiền sư đời Minh, họ Giang, tự Thiên Kỳ, người xứ Chung Lăng (nay là Nam Xương, Giang Tây) Trung Quốc. Người đời gọi sư là “Quỳnh Tuyệt Lão Nhân”, nối pháp Thiền sư Bảo Phong Minh Tuyên, tông Lâm Tế đời thứ 29.

Tác phẩm: Tuyết Đậu Tụng Cổ Trực Chú, Thiên Đồng Tụng Cổ Trực Chú.

 Tổ Thiên Kỳ Bản Thụy

BẢN THƯỜNG LÝ

本常理

Đạo lý xưa nay vĩnh hằng bất biến.

BẢN TỊCH

本寂

Tổ Tào Sơn Bản Tịch

1. Thiền sư đời Đường (840-901), họ Hoàng, người Bồ Điền, Phúc Kiến, Trung Quốc.

Thuở bé sư theo nghiệp Nho, văn từ vững chãi, thanh nhã, lấy bút hiệu là Tiểu Tắc Hạ. Năm 19 tuổi, sư xuất gia ở chùa Vân Danh, Phúc Châu. Đến 25 tuổi sư thụ giới cụ túc, mỗi hành vi sư đều thận trọng như bậc thầy mô phạm. Về sau sư tham học nơi ngài Động Sơn Lương Giới và đắc pháp, nối tiếp tông phong của ngài, cuối cùng diễn hóa thành một tông phái lớn là Tào Động. Sư trụ trì chùa Tào Sơn ở Lâm Xuyên (nay là huyện Nghi Hoàng, tỉnh Giang Tây). Người đến cầu pháp nơi sư rất đông. Sư từng chú thích “Hàn Sơn Tử Thi”, hạng văn nhân rất quý trọng sư. Khi sư tịch rồi, đệ tử xây tháp, ngài Huyền Thái ở Nam Nhạc làm bài minh thụy Nguyên Chứng Thiền sư. Theo phả hệ sư là Tổ Thiền tông đời thứ 12, Nam Tông đời thứ 7, hệ Thanh Nguyên đời thứ 6, Tông Tào Động đời thứ 2.

Tác phẩm: Hàn Sơn Tử Thi chú, Phủ Châu Tào Sơn Nguyên Chứng Thiền sư ngữ lục.

2. Thiền sư đời Lý (?-1140), thuộc dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi đời thứ 13, nối pháp Thiền sư Thuần Chân ở chùa Hoa Quang. Sư họ Nguyễn, quê ở làng Tây Kết, miền Bắc Việt Nam. Sư trụ trì chùa Chúc Thánh ở làng Nghĩa Trú, huyện Bình Lạc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên).

Theo: Thiền Uyển Tập Anh.

BẢN TIÊN (942-1008)

本先

Thiền sư đời Tống, họ Trịnh, người xứ Ôn Châu (nay thuộc Chiết Giang) Trung Quốc. Sư nối pháp Thiên Thai Đức Thiều Quốc sư, tông Pháp Nhãn.

Tác phẩm: Trúc Lâm tập, 10 quyển.

BẢN TÍNH

本性

Tính có sẵn, tức Phật tính mà mọi người đều sẵn đủ.

Đàn Kinh bản Đôn Hoàng ghi:

本性自清淨自定。

Bản tính tự thanh tịnh tự yên định.

Tiết Ô Cự Hành Thiền sư trong NĐHN q, 20 ghi:

見則見自本性。

Thấy thì thấy tự bản tính. 

BẢN TỊNH

本淨

1. Thiền sư đời Lý (1100-1176), thuộc dòng Vô Ngôn Thông đời thứ 9, nối pháp Thiền sư Mãn Giác. Sư họ Kiều, quê ở Phù Diễn, Vĩnh Khương (nay thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông) miền Bắc Việt Nam. Sư trụ chùa Càn An ở kinh thành Thăng Long. Về sau, sư ở am Bình Dương, núi Kiết Đặc, huyện Chí Linh, trấn Hải Dương.

Theo: Thiền Uyển Tập Anh.

2. Thiền sư đời Đường (676-761) họ Trương, người xứ Giáng Châu (nay là Tân Giáng tỉnh Sơn Tây) Trung Quốc.

Một thuyết khác nói Sư là người xứ Đông Bình (nay là phía đông huyện Đông Bình, tỉnh Sơn Đông). Xuất gia từ thuở bé, sư đi tham học và đắc pháp nơi Lục tổ Huệ Năng. Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) sư trụ chùa Vô Tướng núi Tư Không. Trong niên hiệu Thiên Bảo, sư được Dương Đình Quang tiến dẫn về kinh để cùng các hàng Danh tăng Thạc đức biện nạn, cuối cùng họ đều bị Bản Tịnh chiết phục. Thụy hiệu “Đại Hiểu Thiền sư”, và sư cũng lấy chỗ ở làm hiệu là Tư Không Sơn Thiền sư.

BẠN CHÂN THANG

伴眞湯

Nước trà nóng mà vị Trụ trì mời các vị Tây đường, Lưỡng tự (Bạn chân) dùng trước bàn Phật hay trước tượng Tổ sư sau lễ cúng kỵ vị thầy mà Trụ trì nối pháp.

Theo điều Tự Pháp Sư Kị trong STBTTQ q. 2 ghi: 

若請特爲伴眞湯(齋罷、方丈客頭請西堂、兩序、晚間對眞、相伴喫湯。)

Nếu đặc biệt thỉnh hai vị Tây đường và Lưỡng tự, thì gọi là Bạn chân thang. (Thọ trai xong, Tri khách của phương trượng mời các Tây đường, Lưỡng tự, buổi chiều tối ở trước tượng cùng nhau dùng nước trà nóng).

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BẠN DẠ

伴夜

Còn gọi: Vãn dạ, Đại dạ, Thông dạ (gọi theo thế tục).

Chỉ cho đêm cuối cùng chư tăng thức làm bạn với vị tăng đã mất.

Trong các tự viện Thiền tông, một đêm trước khi đem vong tăng (vị tăng đã mất) làm lễ trà tỳ, các sư tăng thức suốt đêm ở một bên làm bạn với vong tăng và cúng dường. Căn cứ theo Đại Giám Thanh Quy được dẫn trong môn Tiết Thời thứ 4, Thiền Lâm Tượng Khí Tiên, thì đêm thị tịch của người chết gọi là Đương dạ, đêm thứ hai gọi là Vãn dạ, ngày thứ ba là lễ Trà tỳ. Vãn dạ còn gọi là Đại dạ, bởi chỉ quàn lại đây một đêm, ngày mai an táng (không về nữa), cho nên ân cần cúng dường. Các sư tăng vây quanh trọn đêm không ngủ, nên gọi là Bạn dạ, đêm ấy chỉ đánh khánh và tụng Kinh Kim Cang.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BẠN HẠC TÙY PHONG ĐẮC TỰ DO 

伴鶴隨風得自由

Làm bạn với cánh hạc theo gió rong chơi tự tại.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho cảnh giới giải thoát của Thiền giả cũng như mây hạc tự do tự tại không chướng ngại.

Tắc 19, TDL ghi:

滄海闊、白雲閑(伴鶴隨風得自由)。

Biển xanh bát ngát, mây trắng bồng bềnh (Làm bạn với hạc theo gió rong chơi tự tại).

BẠN NGÃ TỊNH LỮ THIỀN SƯ

伴我淨侶禪師

Thiền sư Tịnh Lữ đời Thanh, người đời gọi sư là Bạn Ngã Tịnh Lữ Thiền Sư.

X. Tịnh Lữ.

BẠN TĂNG

伴僧

1. Còn gọi: Dịch tăng.

Trong Tịnh Độ Chân Tông ở Nhật Bản, Bạn Tăng là vị tăng giúp sức cho vị Trụ trì trong các pháp vụ như: Đọc kinh v.v…

2. Còn gọi: Tòng tăng.

Vị tăng đi theo vị Trụ trì.

3. Là vị tăng siêng năng hành đạo, theo sát vị Đạo sư trong nghi thức tu của Mật giáo.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BẠN THIỀN

伴禪

Còn gọi: Bồi thiền.

Vị trụ trì giúp đỡ đại chúng tọa thiền. Canh năm, Trụ trì sau khi hành hương lên Tăng đường giúp đỡ đại chúng tọa thiền.

Theo: Điều Trụ Trì trong Tiểu Tùng Lâm Lược Thanh Quy q. thượng ghi:

住持但伴大衆坐禪、此名陪禪。

Vị Trụ trì nào giúp đỡ đại chúng tọa thiền gọi là Bồi thiền.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BÀNG CƯ SĨ NGỮ LỤC

龐居士語錄 

Ngữ lục 3 quyển, do Bàng Uẩn soạn vào đời Đường, Vu Địch biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 120, trang 55.

Quyển 1: Cơ duyên đối thoại giữa Bàng Uẩn với các vị Mã Tổ, Thạch Đầu Hy Thiên, Đan Hà Thiên Nhiên, Phổ Tế, Tùng Sơn, Đại Mai; hiển thị cơ dụng Không Không vô tướng, vô vi, vô ngã của ông.

Quyển 2, 3: Thơ ngũ ngôn, thất ngôn và các lời nói vụn vặt, đáng làm tấm gương cho người học tu tập.

BÀNG GIA HÀNH CƯỚC

傍家行脚

Hành cước đến các Thiền viện khác để tham bái.

VINL ghi:

諸上座傍家行脚、也須審諦、著些精彩、莫只藉少智慧、過却時光。

Các Thượng tọa hành cước đến các Thiền viện khác để tham bái, cũng phải xét kỹ, phải có chút đỉnh xuất sắc, chớ ỷ vào một ít trí huệ mà bỏ mất thời gian.

BÀNG MIẾT NGỮ

傍瞥語

Lời nói mé, nói thoáng qua để thổ lộ yếu chỉ của thiền sư đối với người học.

Tắc 30, BNL ghi:

遠錄公云:此是傍瞥語。

Viễn Lục Công nói Đây là lời nói thoáng qua để thổ lộ yếu chỉ.

BÀNG UẨN

龐蘊

Cư sĩ đời Đường, tự là Đạo Huyền, người đời gọi là Bàng cư sĩ, Bàng ông; người đất Hành Dương, Hành Châu (nay thuộc Hồ Nam), Trung Quốc.

Ông xuất thân từ Nho nghiệp; lúc niên thiếu ngộ trần lao, chí cầu chân đế. Ban đầu ông yết kiến Thạch Đầu Hy Thiên, chợt có tỉnh, kết bạn với Đan Hà Thiên Nhiên. Sau đó tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất, ngay dưới lời dạy liền lãnh hội huyền chỉ, và ở lại tham học hai năm. Do cơ phong lanh lẹ này khiến ông được mọi người chú ý. Niên hiệu Nguyên Hòa (806-820), ông bắc du Tương Dương (nay thuộc Tương Phàn, tỉnh Hồ Bắc) dắt theo vợ con làm ruộng dưới chân núi Lộc Môn. Ngày nào cũng có người đến hỏi đạo, những lời đáp của ông đều là lời cơ phong, nhân đây vợ con của ông đều được triệt ngộ. Niên hiệu Thái Hòa (827-835), ông lìa đời, còn để lại Bàng Cư Sĩ ngữ lục 3 quyển.

BẢNG TRẠNG BÀI THỊ

榜狀牌示

Những phương tiện thông tri cho đại chúng.

 Trong tùng lâm, mỗi khi làm việc phải tri đơn, thiết bảng, thư trạng, bài thị v.v… để làm phương tiện thông tri cho đại chúng.

Như khi vị Trụ trì mời trà nước Thủ tọa hoặc các vị tôn túc từ xa đến đều dùng bảng liệt kê danh sách do thị giả báo cho biết, gọi là Tri đơn.

Lại, Trụ trì, Tri khố thỉnh mời chiêu đãi trà nước đại chúng thì dùng bảng, Thủ tọa mời thì dùng trạng. Địa điểm dán trạng, bảng, mỗi cái cũng không giống nhau Phương trượng thỉnh Thủ tọa thì dán bảng ở trên tấm thẻ bên phía đông trước nhà Tăng. Tri khố mời Thủ tọa thì đem bảng dán ở trên tấm thẻ bên phía tây. Thủ tọa thỉnh Hạ đầu, Thủ trà, thì đem trạng dán trên tấm ván gian dưới trước nhà Tăng. Còn sự thông tri hành chính trong tùng lâm đều dùng phương thức treo thẻ để truyền đạt, gọi là Bài thị. Địa điểm treo thẻ, tùy theo công việc mà nơi treo khác nhau. Như các thẻ báo tin về kiết hạ, tụng giới, thỉnh thức, thiếp đan, phổ Phật v.v… đều treo ở trước Trai đường. Thượng đường, bỉnh phất, cầu thỉnh, cầu mưa v.v… treo thẻ ở trước Đại điện. Khởi thất, giải thất v.v… treo thẻ ở trước Thiền đường. Thăng tòa, miễn lễ v.v… treo thẻ ở phía trong trước điện Vi Đà.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BẠNG CÁP THIỀN

蚌蛤禪

Thiền con sò. Thiền pháp nêu rõ chân diện mục của bậc pháp sư Thiền tông, giống như thấy rõ ruột gan của con sò (Bạng cáp: con sò).

Tắc 18, VMQ ghi:

洞山老人、參得些蚌蛤禪。

Ông già Động Sơn, tham được chút ít Bạng cáp thiền.

BÁO ÂN

報恩

Thiền sư đời Tống, họ Lưu, người xứ Lê Dương (nay ở hướng đông nam huyện Hưu Ninh, tỉnh An Huy) Trung Quốc. Sư nối pháp Thiền sư Nghĩa Thanh ở núi Đầu Tử.

Tác phẩm: Tào Động Tông Phái lục, Thọ Bồ Đề Tâm Giới Văn, Lạc Phát Thụ giới Nghi Văn.

BÁO ÂN HỒNG TẾ TỰ

報恩洪濟寺

Chùa Quảng Tế ở đời Nguyên được gọi là Báo Ân Hồng Tế tự.

X. Quảng Tế tự.

BÁO ÂN QUANG HIẾU THIỀN TỰ

報恩光孝禪寺

X. Hạc Lâm tự.

BÁO ÂN TỰ

報恩寺

Còn gọi: Bắc Thiền Tự.

Chùa Báo Ân.

1. Chùa nằm ở đường Nhân Dân, Bắc thành, Tô Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.

Được xây dựng vào khoảng niên hiệu Xích Ô (238-251), triều Đông Ngô, đời Tam Quốc, ban đầu lấy tên “Thông Huyền Tự”. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 26 (738) đời Đường, chùa được đổi tên là Khai Nguyên Tự. Về sau bị phá hủy. Niên hiệu Đồng Quang thứ 3 (925) đời Hậu Đường, Ngô Việt Vương Tiền Mục đổi tên chùa là Báo Ân Tự. Đời Tống, Vua ban cho tên khác là “Vạn Thọ Báo Ân Quang Hiếu Tự”. Khoảng niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424) đời Minh, chùa được đổi tên là Bắc Thiền Tự, gọi tắt là Bắc Tự. Từ đời Minh Thanh về sau, nơi đây là một đại thiền lâm ở miền Đông nam, xuất hiện nhiều vị Thiền sư kiệt xuất. Trong khuôn viên chùa có một cái tháp cao 76m, rộng lớn tráng lệ, đứng đầu các tháp ở Tô Châu và được khen là “Giang Nam đệ nhất tháp”. Điện Quán Âm được xây vào niên hiệu Vạn Lịch thứ 32 (1604) đời Minh, trong điện có tượng “Quán Âm bất nhiễm trần” cao vài trượng, nên gọi là “Bất nhiễm trần Quán Âm điện”; lại do các cấu kiện chủ yếu được sử dụng là cây Nam Mộc nên người đời gọi là “Nam Mộc Quán Âm điện”. Điện này là một ngôi kiến trúc đời Minh hoàn chỉnh nhất hiện còn. Trong điện còn có 10 bức họa, vẽ về người vật, hoa cỏ, chim muông, núi sông… Trong chùa vẫn còn các di vật văn hóa cổ như Bia ghi công của Trương Sĩ Thành, Tàng kinh lâu…

2. Chùa ở góc Đông bắc Quan thành, huyện Thọ, tỉnh An Huy, Trung Quốc, tương truyền do ngài Huyền Trang phụng sắc xây dựng vào khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-649) đời Đường. Vốn có tên là “Sùng Giáo Thiền Viện”, “Đông Thiền Viện”, “Đông Thiền Tự”. Khoảng niên hiệu Hồng Võ (1368-1398) đời Minh, chùa được đổi tên là “Báo Ân Tự”. Các điện đường hiện còn là kiến trúc đời Thanh, chủ yếu có Sơn môn, Thiên vương điện, Đại hùng bảo điện, Thiền đường, Khách đường. Đại hùng bảo điện màu sắc rực rỡ, hùng tráng. Trong điện có sắp bày các pho tượng điêu khắc từ gỗ, đồng, đất nung. Các tượng lớn đời Đường dáng vẻ trang nghiêm, nét mặt đầy đặn. Các tượng lớn đời Tống có dáng ngồi yên nhìn xuống, biểu lộ vẻ sống động. Các pho tượng đồng đúc vào đời Minh thì đơn giản, trong sáng, hồn hậu, có vẻ như sống. Các pho tượng đất cuối đời Minh đầu đời Thanh, tư thái khác nhau, 18 vị La-hán được tạo hình rất lạ, có thể nói là những tác phẩm nghệ thuật quý báu.

BÁO QUỐC TỰ

報國寺

Chùa Báo Quốc, nằm trên sườn núi Nga My tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.

Tiền thân tên là “Hội Tông Đường”, địa điểm ở cạnh sông Du-già bên phải chùa Phục Hổ thờ cúng bài vị bằng gỗ của Phổ Hiền Phật gia, Quảng Thành Tử Đạo gia, Sở Cuồng Nho gia, ý nghĩa dung hợp tam giáo. Khoảng niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) đời Thanh Thiền sư Văn Đạt dỡ bỏ ngôi đường xây cất chùa trên nền cũ để thờ Phật tượng. Niên hiệu Khang Hy thứ 42 (1703) trùng tu, vua ban tên “Báo Quốc Tự”. Chùa dựa vào thế núi mà xây cất, trên tuyến trục giữa theo thứ lớp có Sơn môn, Di Lặc điện, Đại hùng bảo điện, Thất Phật điện, Tàng kinh lâu, từng bước lên cao kiến trúc càng hùng vĩ, khí thế hiên ngang, tượng Phật ở mỗi điện ánh vàng rực rỡ chói mắt. Cửa nẻo của điện vũ trong chùa điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ, đồ án sinh động, phong cách thuần phác cổ xưa tráng lệ. Dưới Tàng kinh lâu có một tượng Phật bằng sứ cao 3,4m được nung vào niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 13 (1415) đời Minh tạo dáng tự nhiên, dáng vẻ sinh động. Trong chùa còn có một tháp Hoa Nghiêm bằng đồng được đúc vào đời Minh cao 7m, chia làm 3 đoạn 14 tầng, trên tháp có khắc hơn 4700 tượng Phật nhỏ và toàn bộ văn kinh Hoa Nghiêm, tạo dáng mạnh mẽ đẹp đẽ. Ngoài chùa trên lầu Phượng Hoàng có một ngôi đình trên treo một đại hồng chung bằng đồng của trụ trì chùa Thánh Tích vào khoảng niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) đời Minh về sau dời đến đây. Chuông cao 2,3m nặng 2,5 tấn. Trong ngoài chuông có khắc danh tính của vua chúa, bá quan văn võ, cao tăng, cư sĩ cùng văn bia và hơn 61.000 chữ kệ Phật.

BẢO CẢNH TAM MUỘI BẢN NGHĨA

寶鏡三昧本義

Sách, 1 quyển, do Hành Sách soạn vào đời Thanh, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 111, trang 267.

Sư dùng 6 thứ sách tranh Bảo Cảnh Tam muội, Thiên Chính hồi hỗ, Tam điệp phân quái, Ngũ biến thành vị, Nhị dụ hiển pháp, Lục hào nhiếp nghĩa để nêu lên tinh nghĩa Trùng ly lục hào, Chính thiên hồi hỗ và giải thích cặn kẽ thuyết ngũ vị.

BẢO CẢNH TAM MUỘI CA

寶鏡三昧歌

Còn gọi: Động Sơn Lương Giới, Thiền sư Bảo Cảnh Tam Muội, Bảo Cảnh Tam Muội.

Sách, 1 thiên, do Động Sơn Lương Giới soạn vào đời Đường. Thiên này ghi lại huyền chỉ chính thiên hồi hỗ của tông Tào Động bằng thể ca ngâm.

Thuyết Chính thiên hồi hỗ thật ra bắt nguồn từ Tham Đồng Khế do Thạch Đầu Hy Thiên soạn. Sau đó Thạch Đầu truyền cho Dược Sơn, Dược Sơn truyền cho Vân Nham, Vân Nham truyền cho Động Sơn. Đến đời Động Sơn mới tập đại thành thuyết ngũ vị, nên thiên này và Tham Đồng Khế đồng là sách căn bản của tông Tào Động, do đó rất được xem trọng. Toàn thiên làm theo thể tứ ngôn, gồm 94 câu, 376 chữ, được xếp vào Quân Châu Động Sơn Ngộ Bản Thiền sư ngữ lục, và Nhân Thiên Nhãn Mục q. 3. Các sách chú thích có Bảo Cảnh Tam Muội Huyền Nghĩa, Bảo Cảnh Tam Muội Bản Nghĩa, Bảo Cảnh Tam Muội Nguyên Tông Biện Mậu.

view(842)