B2
BẠCH NIÊM TẶC
白拈賊
Gọi tắt: Bạch Niêm.
Kẻ trộm giỏi. Bạch là rỗng không. Niêm là dùng đầu ngón tay nhón lấy đồ vật. Tức là không lấy tay cầm vật mà chỉ lấy đầu ngón tay nhón lấy trộm, không lưu lại dấu vết (Ý chỉ cho kẻ trộm giỏi). Có thuyết cho rằng Bạch có nghĩa là ban ngày, tức giữa ban ngày trước mắt nhìn lom lom đồ vật của mọi người mà nhanh khéo nhón lấy (cái tài khéo léo của kẻ trộm).
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho bậc Tông sư kiến tính dùng thủ thuật khéo léo để tiếp dẫn người học.
LĐHY q. 9 ghi:
雪峯聞云:臨濟大似箇白拈賊。師云:夫善窃者、鬼神莫知、既被雪峯覷破、臨濟不是好手。
Tuyết Phong nghe được, nói: Lâm Tế giống hệt kẻ trộm giỏi (…) Tuyết Đậu nói: Nếu là kẻ trộm giỏi thì quỷ thần cũng chẳng hay. Nay đã bị Tuyết Phong biết tỏng nên Lâm Tế chẳng phải là tay nhà nghề.
BẠCH QUANG
白光
Hiệu của Thiền sư Đức Minh đời Thanh.
X. Đức Minh.
BẠCH THÁNH (1904-1989)
白聖
Tăng nhân hiện đại, họ Hồ, tự Khiết Nhân, người xứ Ứng Thành, Hồ Bắc, Trung Quốc.
Sư từng thân cận Thiền sư Lai Quả ở chùa Cao Mân và là người sáng lập Trung Quốc Phật Giáo Tam Tạng Học Viện, Viện Nghiên Cứu Phật giáo Trung Quốc.
Tác phẩm: Học Thiền Phương Tiện Đàm, Thiền tông sử luận tập, Duy-ma-cật kinh giảng lục.
BẠCH VÂN
白雲
Mây trắng.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho sự hoàn toàn không dính mắc, tự do vô ngại giống như mây trắng đến đi tự tại. CĐTĐL q. 14 ghi:
道悟問:如何是佛法大意?師曰:不得不知。悟曰:向上更有轉處也無?師曰:長空不礙白雲飛。
Đạo Ngộ hỏi: Thế nào là đại ý của Phật pháp? Sư đáp: Không thể không biết! Đạo Ngộ hỏi: Hướng thượng còn có chỗ nào chuyển không? Sư đáp: Không gian nào ngại mây trắng bay.
BẠCH VÂN AN CỐC (1885-1973)
白雲安谷
Hakuun Yasutani (jap).
Thiền sư, sống vào cuối thời đại Minh Trị đến thời đại Đại Chính Chiêu Hòa, pháp danh Bạch Vân, cũng gọi là Tổ Nhạc, thuộc tông Tào Động Nhật Bản.
Sư xuất gia lúc 11 tuổi, 13 tuổi đã trở thành vị tân học tăng của tông Tào Động. Sư học ngành giáo dục sư phạm và từng làm giáo chức. Năm 15 tuổi mới tập tọa thiền, ngoài 40 tuổi mới chính thức trở thành vị tăng ở chùa, rồi được Nguyên Điền Đại Vân nhận làm môn đệ, đến năm 58 tuổi được ngài ấn khả. Sư truyền dạy các pháp Thiền tâm yếu của Thiền sư Đạo Nguyên tức “Chỉ quản đả tọa” và pháp yếu của tông Lâm Tế là “Công án và tọa thiền”. Ngoài việc tổ chức hoạt động “Tiếp tâm” ở Nhật Bản, sư còn diễn giảng thiền học tại các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức. Tác phẩm: Sư có chú thích về Công án tập như Vô Môn Quan, Bích Nham lục, Thung Dung lục, Truyền Quang lục, Động Sơn Ngũ vị.
Theo: PQĐTĐ của nhóm Từ Di
BẠCH VÂN HƯU
白雲休
Thiền sư Vô Hưu đời Ngũ Đại ở chùa Bạch Vân tại Kinh Triệu, người đời gọi là Bạch Vân Hưu.
X. Vô Hưu.
BẠCH VÂN THỦ ĐOAN THIỀN SƯ QUẢNG LỤC
白雲守端禪師廣錄
Còn gọi: Bạch Vân Đoan Hòa thượng ngữ lục.
Ngữ lục, 4 quyển, do Bạch Vân Thủ Đoan soạn vào đời Tống, nhóm ông Xử Ngưng biên tập, được xếp vào Tục Tạng kinh, tập 120, trang 400. Nội dung bao gồm các ngữ lục do đệ tử của Thủ Đoan biên tập tại 6 nơi: Thiền viện Viên Thông Sùng Thắng ở Giang Châu; Thiền viện Thừa Thiên; Thiền viện Chứng Đạo, núi Pháp Hoa ở Thư Châu; Thiền viện Càn Minh ở núi Long Môn; Thiền viện Hưng Hóa; Thiền viện Hải Hội ở núi Bạch Vân; cho đến các kệ tụng, 100 tắc tụng cổ và bài tựa Tổ Đường Cương Kỷ.
BẠCH VÂN THƯỢNG NHÂN
白雲上人
Thiền sư Mãn Khởi đời Minh, người đời gọi là Bạch Vân Thượng nhân.
X. Mãn Khởi.
BẠCH VÂN TỰ
白雲寺
Chùa Bạch Vân.
1. Chùa nằm ở đỉnh hồ, góc phía Nam tỉnh Sơn Tây, cách thành phố Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc 18km về hướng Đông bắc. Chùa được xây dựng bởi sư Trí Thường, đệ tử của Lục tổ Huệ Năng.
Đương thời từng có 30 ngôi chùa phân bố khắp núi. Khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) đời Minh, chùa được xây dựng lại. Vào khoảng niên hiệu Hàm Phong (1851-1861) và Quang Tự (1875-1908) đời Thanh, chùa được trùng tu hai lần. Trong chùa có Niết-bàn đài, dưới Đài có khắc 8 chữ lớn “Chính pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm”, tương truyền là thủ bút của ngài Trí Thường. Ngoài ra còn có các di tích Dược Long am (Am rồng quẫy), La-hán kiều (Cầu La-hán), Thánh tăng kiều, Điếu ngư đài (Đài câu cá), Tiên kỳ thạch, Thạch thành môn. Gần đó còn có các cảnh lạ như Lão long đàm, Tam-muội đàm, Dục Phật trì, Thủy liêm động thiên. Thủy liêm động thiên là khe núi có dòng thác từ trên cao hơn 30m rót xuống, bụi nước tung lên phản chiếu ánh sáng mặt trời thành một cầu vồng, trông thật ngoạn mục.
2. X. Phong Huyệt tự.
BẠCH VÂN VẠN LÝ
白雲萬里
Còn gọi: Bạch Vân thiên lý vạn lý.
Muôn dặm mây trắng.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho cùng với tự tánh cách nhau rất xa.
PDNL q. hạ ghi:
自十九到二十三日、萬余人來此赴會哄哄地、如今只見老漢獨自口吧吧地。若道多人閙一人是靜、直是白雲萬里畢竟如何?一人浩浩、多人靜悄悄、不如歸堂喫茶好。!
Từ ngày 19 đến ngày 23, hơn muôn người đến dự hội thật rộn rịp, hôm nay chỉ thấy lão này lải nhải một mình. Nếu nói nhiều người là ồn, một người là lặng, chính là muôn dặm mây trắng! Rốt cuộc thế nào? Một người thì ồn ào, nhiều người thì vắng lặng, chẳng bằng trở về nhà uống trà còn hơn.
BẠCH Y BÁI TƯỚNG
白衣拜相
Thường dân được phong làm Tể tướng.
Bạch y: Hạng dân dã không địa vị quan chức.
Bái Tướng: Được phong chức Tể tướng.
Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người hoát nhiên đốn ngộ, chuyển phàm thành Thánh.
HĐNL q. 1 ghi:
大丈夫漢、等是爲人、何不教他脫籠頭、卸馱、如白衣拜相一般。
Kẻ đại trượng phu, họ cũng là người, sao không bảo họ cởi bỏ lồng chậu, đồ mang vác đi, giống như hạng thường dân được phong chức Tể tướng.
BÀI
牌
Là thẻ gỗ dùng để thông báo các thứ việc cho đại chúng trong các chùa.
Thông thường thẻ dài khoảng 48cm, rộng hơn 38cm. Tùy theo công việc được thông báo mà có các loại bài:
1. Giới lạp bài: Sắp xếp vị trí theo số năm thụ giới của tăng chúng;
2. Xướng y bài: Thông báo về việc rao bán di vật của vị tăng quá cố;
3. Thượng đường bài: Treo ở Pháp đường để thông báo thời khắc thượng đường;
4. Tọa thiền bài: Treo ở trước Thiền đường để thông báo giờ giấc ngồi thiền; và Tiểu tham bài, Phóng tham bài, Phổ thỉnh bài, Khai dục bài (tắm), Phóng sinh bài v.v…
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di
BÀI ĐIỆP
排叠
Còn gọi: Bài phê 排批.
Sắp đặt, lo liệu.
Tiết Phổ Hóa Hòa thượng trong TĐT q. 17 ghi:
非久之間、普化自上來臨濟、臨濟便歡喜、排批飯食、對坐吃。
Không bao lâu thì Phổ Hóa lên đến viện Lâm Tế. Lâm Tế (Nghĩa Huyền) liền vui mừng, sắp đặt cơm nước và cùng ngồi ăn.
BÀI KHIỂN
排遣
Ứng phó, đối phó.
Tiết Vân Môn Văn Yển Thiền sư trong NĐHN q. 15 ghi:
問:生死到來、如何排遣?師展手曰:還我生死來。
Hỏi: Sinh tử đến, làm sao đối phó? Sư liền dang tay, nói: Trả sinh tử lại cho ta.
BÃI ĐỘNG
摆動
Phấn chấn tinh thần.
Tiết Vân Môn Văn Yển Thiền sư trong NĐHN q. 15 ghi:
若是初心後學、直須摆動精神、莫空記人說處、多虛不如少實。
Nếu là hàng hậu học sơ tâm cần phải phấn chấn tinh thần. Đừng luống công ghi nhớ những điều người khác nói. Nhiều mà hư chẳng bằng ít mà thật.
BÃI GIẢNG TRAI
罷講齋
Bữa tiệc chay cúng dường chư tăng sau khi vị tọa chủ tham thiền ngộ đạo.
Thuật ngữ chỉ cho người theo Giáo môn khi tham thiền có sự tỉnh ngộ, liền nghỉ giảng và thiết lập trai đàn cúng dường Tăng chúng, nghi thức ấy gọi là Bãi giảng trai.
HĐNL q. 1 ghi:
良遂座主參麻谷、谷見來、攜鉏去鉏草。次日又來、谷便閉卻門、遂因此契悟、乃云:和尚莫謾良遂好、若不來見和尚、幾被十二分教誤卻一生。遂將房計賣卻、作一罷講齋。
Tọa chủ Lương Toại đến tham kiến Ma Cốc. Cốc thấy sư đến liền lấy cào đi cào cỏ. Ngày kế sư lại đến, Cốc liền đóng cửa. Nhân đó Toại khế ngộ, liền nói: Hòa thượng chớ lừa Lương Toại nhé! Nếu không đến tham kiến Hòa thượng thì hầu như tôi suốt đời bị lầm vì 12 phần giáo. Rồi Toại bán tài sản để bày một Bãi giảng trai.
BÃI THAM
罷參
Nghỉ việc tham thiền.
Trong Thiền lâm, lúc người tham học khai ngộ, hiểu rõ đại sự, không cần tu đạo, tham thiền nữa.
Tắc 96, BNL ghi:
爾若透得此三頌、便許爾罷參。
Nếu ngươi thấu đáo được ba bài tụng này thì cho ngươi nghỉ việc tham thiền.
CĐTĐL q. 8 ghi:
自罷參大寂、遊至海昌。
Từ khi nghỉ việc tham thiền nơi ngài Đại Tịch, liền đi đến Hải Xương.
Bãi tham trai: Sau khi tham thiền đã được liễu ngộ, thiết trai cúng dường đại chúng.
Bãi tham hội: Hoàn thành sự tham vấn ở các nơi, hoặc đạt đến kiến giải của bậc khai ngộ.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẠI KHUYẾT
敗缺
1. Bị thua, bị đánh bại.
Tiết Lâm Tế Nghĩa Huyền Thiền sư trong NĐHN q. 11 ghi:
師以手指曰:這老漢今日敗缺也。
Sư lấy tay chỉ và nói: Lão già này hôm nay bị thua rồi!
2. Thất bại.
Tiết Nam Viện Huệ Ngung Thiền sư trong NĐHN q. 11 ghi:
僧參、師擧拂子、僧曰:今日敗缺。
Tăng đến tham vấn. Sư giở phất tử. Tăng nói: Hôm nay thất bại.
BÁN CÁ THÁNH NHÂN
半個聖人
Một nửa người thánh.
Bán cá là chỉ số ít, hiếm có. Bán Cá Thánh Nhân nghĩa bóng là một vị Thánh nhân hiếm có.
Tiết Thạch Củng Huệ Tạng trong TĐT q. 14 ghi:
師便拋下弓箭、云:三十年在這裏今日射得半個聖人。
Sư liền vất cung tên xuống đất, nói rằng: Ba mươi năm ở đây, ngày nay bắn được một nửa người Thánh.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BÁN ĐỀ
半提
Nêu ra một nửa. Thuật ngữ chỉ cho Thiền pháp được nêu ra không hoàn toàn triệt để.
MANL ghi:
盡乾坤大地喚作一句子、担枷帶鎖、不喚作一句子、業識忙忙;兩頭俱透脫、凈裸裸、亦洒洒、沒可把、達摩一宗、掃土而盡。所以雲門大師道:盡乾坤大地無絲豪過患、猶是轉句;不見一色、始是半提;更須知有全提時节。
Khắp đất trời thế giới gọi là một câu thì đội gông mang xiềng, chẳng gọi là một câu thì nghiệp thức mang mang. Nếu hai đầu đều thông suốt, toàn thể lộ bày không thể nắm bắt, một tông Đạt-ma đều bị quét sạch. Thế nên Đại sư Vân Môn nói: Đất trời thế giới đều không lầm lẫn mảy may cũng là chuyển cú, chẳng thấy một vật mới là bán đề; còn phải biết có thời tiết toàn đề nữa.
BÁN KHAI BÁN HỢP
半開半合
Còn gọi: Bán hợp bán khai.
Nửa úp nửa mở.
Nguyên là dụng ngữ của Phán Thích Giáo Tướng Phật Học. Khai có nghĩa là bày nói ra (biểu thuyên), hợp có nghĩa là trừ bỏ (giá thuyên). Thuật ngữ Thiền tông để biểu thị trạng thái không nghiêng về một mối nào.
MGNL q. 2 ghi:
龍泉與刀斧同鐵、利鈍懸殊。。。酌然!酌然!一出一入、半合半開;平展之流、試辯緇素。
Gươm Long Tuyền và dao búa đều bằng sắt, bén lụt khác nhau xa (…) Liệu đấy! Liệu đấy! Một xuất một nhập, nửa úp nửa mở, một loại ngang nhau, thử phân biệt xem đâu là đạo, tục.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BÀN BẠC
盤泊
Nương tựa, nương theo một người nào đó để tu học.
Tiết Nham Đầu Hòa thượng trong TĐT q. 7 ghi:
後參德山既盤泊數載、盡領玄旨。…
Sau đó, sư tham vấn Đức Sơn …. nương theo ngài được vài năm, lãnh ngộ hết huyền chỉ.
BÀN BẠC
盤礴
1. Xoay tít, vòng vèo.
BNL q. 1 ghi:
且據雪竇頌此公案一似善舞太阿劍、相似向虛空中盤礴自然、不犯鋒鋩。
Cứ theo lời tụng công án này của Tuyết Đậu giống như người giỏi múa kiếm Thái A, huơ xoay tít trong hư không một cách tự nhiên mà không chạm đến lưỡi bén.
2. Tìm xét nhiều lần.
BNL q. 1 ghi:
雪竇頌一百則公案、一則則焚香拈出。所以大行於世。他更會文章、透得公案、盤礴得熟方可下筆。何故?如此龍蛇易辨衲子難瞞。
Tuyết Đậu tụng một trăm tắc công án, mỗi tắc đều phải thắp hương tụng ra, vì thế được thịnh hành ở đời. Sư đã thông hiểu văn chương, lại thấu triệt công án, tìm xét nhiều lần thật chín chắn mới hạ bút. Tại sao như thế? Vì rắn rồng dễ biện, thiền tăng khó giấu.
BÀN ĐẠI TỬ
媻大子
Còn gọi: Bát đại tử, Bàn đại nhi.
Bậc siêu phàm, người thường không thể dùng kiến thức thông thường mà biết hoặc đo lường sự khác biệt về cái biết của họ được.
Trúc Thiên Hòa thượng ngữ lục q. trung ghi:
進云:時有僧曰:特牛生兒也何以不道?山曰:把燈來!把燈來!又作麼生?答云:如槃大子。
Lại hỏi tiếp: Khi ấy có vị tăng nói: Trâu đực sinh con vì sao không nói? Sơn đáp: Đem đèn lại! Đem đèn lại, là cái gì? Đáp: Như Bàn đại tử.
BÀN HOÀN
盤桓
Tình ý ân cần sâu nặng.
MANL ghi:
忽接四明信。
來書意盤桓。
天童虛法席。
使君語猶端。
迢迢遣專使。
不問路行難。
山僧臨晚景。
不敢自相瞞。
搥鼓樂與行。
四眾亦欣歡。
Bỗng được thư Tứ Minh,
Lời lẽ thật ân cần,
Pháp hội Thiên Đồng trống,
Khiến huynh phải băn khoăn.
Xa xôi sai sứ giả,
Chẳng kể đường khó khăn.
Sơn tăng đã già cả,
Chẳng dám tự dối huynh.
Đánh trống đi vui vẻ.
Bốn chúng cũng vui mừng.
BÀN LONG TỰ
盤龍寺
Chùa Bàn Long, tọa lạc ở núi Đông Kiều, huyện Tấn Ninh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, do Thiền sư Liên Phong xây cất.
Liên Phong (1298-1364) họ Đoàn, người Tấn Ninh thuộc con cháu họ Đoàn, nước Đại Lý. Năm 29 tuổi xuất gia, pháp danh Sùng Chiếu. Sư từng vân du bảy năm qua các danh sơn cổ sát, bái sư học tập thiền pháp. Niên hiệu Chí Chính thứ 7 (1347) đời Nguyên, sư xây cất chùa nơi đây, ban đầu tên là “Bàn Long Am”. Về sau trải qua nhiều lần xây cất trở thành ngôi chùa lớn thứ hai Vân Nam có Phật điện, Thiền đường, Khách đường, Tăng xá. Niên hiệu Ung Chính thứ 1 (1723) tăng chúng ở xứ ngoài lại thỉnh về một bộ “Nam Tạng Kinh” cất giữ trong Tàng kinh lâu. Hiện còn những kiến trúc như Nhị đạo môn, Bất nhị điện, Đại hùng bảo điện, Tổ sư điện, Dược sư điện, Ngọc hoàng các. Trong chùa có một tấm bia “Đại Bàn Long Am Đại Giác Thiền Sư Bảo Vân Tháp Minh” ghi lại sự tích của Thiền sư Liên Phong.
BẢN DỰ (?-1646)
本豫
Thiền sư sống vào cuối đời Minh - đầu đời Thanh. Họ Trần, tự Lâm Cao, hiệu Hối Phu, người xứ Côn Sơn (nay thuộc Giang Tô) Trung Quốc, nối pháp Thiền sư Bàn Sơn Tu, tông Lâm Tế.
Tác phẩm: Tông Môn Giới Phạm.
BẢN LAI (1355-1422)
本來
Thiền sư đời Minh, họ Bùi, hiệu Tây Trúc, người xứ Sùng Nhân (nay thuộc Chiết Giang), Trung Quốc. Sư nối pháp Thiền sư Từ Chu Tế.
BẢN LAI DIỆN MỤC
本來面目
Còn gọi: Bản địa phong quang, Bản phận điền địa, Tự kỷ bản phận.
Mặt mũi xưa nay. Diện mạo vốn có.
Thuật ngữ chỉ cho tự tính chẳng mê chẳng ngộ mà mọi người đều sẵn có, chỉ hiện tiền khi thân tâm tự nhiên rỗng rang. Đồng nghĩa với Bản giác của Hiển giáo, Bản sở của Mật giáo.
KPBĐ ghi:
能云:不思善、不思惡。正與麼時、那箇是明上座本來面目?
Huệ Năng nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó cái gì là mặt mũi xưa nay của Thượng tọa Minh?
BNL q. 10 ghi:
直須淨躶躶赤灑灑更無物可得乃是本地風光一似。
Cần phải bày lồ lộ, sạch trọi trơn, không có một vật khá được, mới là mặt mũi xưa nay.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẢN LAI VÔ NHẤT VẬT
本來無一物
Xưa nay không một vật. Chỉ cho Tự tính vốn thanh tịnh, nào có vật gì.
Thuật ngữ Thiền tông xuất phát từ bài kệ trình kiến giải của Huệ Năng trong Lục Tổ Đàn Kinh:
菩提本無樹
明鏡亦非臺
本來無一物
何處有塵埃
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào lấm trần ai?
Ý nói tất cả đều vắng lặng, không còn một vật nào, đó là cảnh giới giác ngộ sáng suốt.
BẢN LAI VÔ SỰ
本來無事
Còn gọi: Bản vô sự nhi vong tình, hưu tâm bất khởi.
Vốn không có tạo tác.
Đây là đường lối tu hành của phái Thiền Ngưu Đầu. Phái này cho rằng Tâm cảnh vốn không có, tâm tạo tác đều là mê vọng, cho nên phải tan mất vọng tình của mình đi thì cảnh sẽ không có chỗ nương tựa.
Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.
BẢN MẠNG NGUYÊN THẦN
本命元辰
Bản Mạng, Nguyên Thần đều là những vì sao chi phối vận mệnh con người.
Thuật ngữ chỉ cho bản tính của chính mình.
Bài 60 trong Sơn Cư Bách Vịnh của Thiền sư Tông Bản ghi:
山居趺坐一蒲團
日用工夫在反觀
本命元辰知落處
舌頭不被別人謾
Ở non ngồi vững một bồ đoàn
Hằng dụng công phu tự phản quan
Đến nay không bị ai lừa nữa
Vì ngộ bản tính thật rõ ràng.
BẢN MẬT (1606-1665)
本滵
Còn gọi: Hành Mật.
Thiền sư đời Thanh, họ Kim, hiệu Nhị Ẩn, người xứ Cổ Du Xương Châu, Trung Quốc, nối pháp Mật Vân Viên Ngộ, tông Lâm Tế.
Tác phẩm: Nhị Ẩn Mật Thiền sư ngữ lục, 10 quyển.
BẢN NGUYÊN CHÂN TÍNH PHẬT
本源眞性佛
Tính giác sẵn có nơi mỗi người, xưa nay là Phật.
ULL ghi:
爾今聞發菩提心、將謂一箇心學取佛去、唯擬作佛。任爾三秖劫修、亦秖得箇報化佛、與爾本源眞性佛有何交涉。
Nay người nghe nói phát tâm Bồ-đề liền tưởng rằng đem tâm để học Phật, chỉ mong làm Phật. Mặc cho ngươi tu ba kỳ kiếp, cũng chỉ được Phật báo hóa, cùng với Bản nguyên chân tính Phật có gì dính dáng.