B

Posted by tranminhhuydn on Wed, 22/03/2017 18:00

BA LĂNG HẠO GIÁM

巴陵顥鑒

Thiền sư Hạo Giám đời Ngũ Đại ở chùa Tân Khai tại Ba Lăng, Nhạc Châu, người đời gọi là Ba Lăng Hạo Giám.

X. Hạo Giám.


BA TIÊU AM CHỦ

芭蕉庵主

Thiền sư đời Tống, tên Cốc Tuyền ở am Ba Tiêu, nên người đời gọi sư là “Ba Tiêu am chủ”.

X. Cốc Tuyền.

BA TRA

波吒

Nguy nan, khốn đốn. Từ dịch âm tiếng Phạn.

PDNL q. thượng

莫問新婦阿家、免煩路上波吒。

Chớ hỏi bà mẹ chồng, khỏi phiền khốn đốn trên đường.

BA TRUNG THỦ NGUYỆT

波中取月

Còn gọi: Ba trung tróc nguyệt

波中捉月.

Mò trăng đáy nước.

Thành ngữ chỉ cho hành vi hư vọng, nhọc công.

Tiết Ấu Chương Thiền sư trong CĐTĐL q. 20 ghi:

若是學語之輩、不自省己知非、直欲向空裏采花、波中取月、還著得心力麼?

Nếu là bọn học ngữ, chẳng tự xét biết lỗi của mình, chỉ muốn tìm hoa đốm trong hư không, mò trăng đáy nước mà còn ráng tận lực sao?

BA TỴ

巴鼻

Vốn có nghĩa là nắm chặt lỗ mũi, ẩn dụ dùng sợi dây xỏ mũi dắt trâu.

Thuật ngữ chỉ cho chỗ ra tay lãnh ngộ thiền pháp, cũng chỉ thiền cơ, cơ phong.

Pháp Diễn ngữ lục q. trung ghi:

師上堂、卓拄杖一下、乃擧起云:拄杖子、敢問你、還說得如來禪麼?自云:說不得。還說得祖師禪麼?自云:說不得。既說不得、白雲今日出自己意去也。出自己意、小兒子戯。人天衆前、討甚巴鼻?

Sư thượng đường, dộng cây gậy xuống một cái rồi giơ lên, nói: Cây gậy ơi, dám hỏi ngươi: Có nói được Như lai thiền chăng? Sư tự đáp: Không nói được. Có nói được Tổ sư thiền chăng? Sư tự đáp: Không nói được. Đã không nói được thì Bạch Vân tôi hôm nay sẽ đưa ra ý của mình.

Đưa ra ý của mình khác nào trò đùa của con nít. Ở trước đại chúng, tìm xem cơ phong gì?

BÀ BÀ HÒA HÒA

婆婆和和

Oa oa, oe oe là tiếng kêu không rõ ràng của trẻ con.

Thuật ngữ chỉ cho ngôn hạnh của Như Lai không thiên lệch. Thuật ngữ này đồng nghĩa với từ Anh nhi hạnh trong Kinh Niết-bàn 18 (bản Nam).

Thụy Châu Động Sơn Lương Giới Thiền sư ngữ lục ghi:

如世嬰兒、五相完具

不去不來、不起不住

婆婆和和、有句無句

終不得物、語未正故

Như trẻ trong nôi, năm tướng đầy đủ

Chẳng đến chẳng đi, chẳng ngồi chẳng đứng

Oa oa! Oe oe! Tiếng được tiếng mất

Không ai hiểu chi. Vì lời chưa rõ.

BẢ BẢN TU HÀNH

把本修行

Nương tựa vào giáo pháp để tu hành nên chưa thể vượt lên cảnh giới khoáng đạt tự tại.

HĐNL q. 1 ghi:

從來把本修行、不敢棄嫌因果。

Xưa nay nương tựa vào giáo pháp không dám coi thường nhân quả.

BẢ BỔNG HOÁN CẨU

把棒喚狗

     Cầm gậy gọi chó.

Đây không phải là cử chỉ bình thường mà bao hàm tính cách nguy hiểm là gọi lại để đánh. Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho bậc thầy sử dụng cơ pháp dữ dội hiểm ác khi dẫn dắt người học.

Tắc 41, TDL ghi:

若揀得出、分付鉢袋子。把棒喚狗。

Nếu ông phân biệt được thì ta trao cho cái đãy đựng bát (Cầm gậy gọi chó).

BẢ CHÂM

把針

May vá áo quần.

Trong tùng lâm thời xưa, tăng chúng thường tự may vá pháp phục, áo quần … vào những khi nhàn rỗi, ngoài lúc tu tập tọa thiền.

Bách Trượng Quy Thắng Tụng trong TUTQ q. 10 ghi:

或把針、剃頭、剪紙、合藥、或曬鞋靸、觸衣、浴具、皆於屋後僻處。

Hoặc may vá, cạo tóc, cắt giấy, làm thuốc hoặc phơi giày, giặt áo, rửa tọa cụ, đều ở nơi hậu liêu vắng vẻ!

BẢ ĐỊNH PHONG CƯƠNG

把定封彊

Còn gọi: Bả đoạn phong cương, Bả đoạn yếu tân, Bả đoạn nhân hầu.

Giữ vững biên giới của một nước.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc lập bày một loại cơ duyên đốn ngộ: Chẳng lập văn tự, chặt đứt đường ngôn ngữ, không cho suy nghĩ, nhằm quét sạch mọi học giải tri kiến, vọng tình tục niệm.

PKNL q. 2 ghi:

末後一句、始到牢關、把斷要津、不通凡聖。

Một câu cuối cùng mới đến lao quan, quét sạch địa vị, chẳng cho lọt vào phàm thánh.

BẢ KẾ ĐẦU NHA

把髻投衙

Cúi đầu tạ tội.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho sự ngu xuẩn của Thiền sư, đến nỗi hoàn toàn không tự biết hành động của chính mình.

Tắc 81, BNL ghi:

僧問藥山:平田淺草麈鹿成羣如何射得麈中麈(把髻投衙、擊頭帶角出來腦後拔箭)山云:看箭。僧放身便倒。

Tăng hỏi Dược Sơn Đồng bằng cỏ thưa, hươu nai họp bầy, làm sao bắn được con nai chúa? (Thật ngu xuẩn, đầu sừng giơ ra, nhổ tên sau ót). Dược Sơn bảo Xem tên đây! Tăng ngã nhào.

BẢ LÃM PHÓNG THUYỀN

把纜放船

Còn gọi: Bảo kiều trụ tháo tẩy.

Bả lãm phóng thuyền: Nắm chặt dây neo mà đẩy thuyền đi.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc giữ chặt giáo điều nên không thể giác ngộ.

Tiết Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi:

今時人猶尚抱橋柱澡洗、把纜放船。

Thời nay, người ta còn ưa thích nắm giữ giáo điều nên không thể giác ngộ.

BẢ MAO CÁI ĐẦU

把茅蓋頭

Lợp tranh mái am che đầu mà ở.

Thuật ngữ chỉ cho Thiền sư trụ trì tự viện.

LGNL ghi:

雲居問:如何是祖師西來意?師云:闍黎他後有把茅蓋頭、忽有人問、如何祇對?

Vân Cư hỏi Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? Sư đáp Xà-lê! Mai kia mốt nọ, ông làm Trụ trì, nếu có người hỏi ông thì làm sao đối đáp?

BẢ PHÓNG TRƯỚNG

把放帳

Còn gọi: Vô lậu quan, xuân thu bả phóng trướng.

Bả là thu nhập. Phóng là chi xuất. Tức là sổ sách dùng để ghi chép việc thu chi tiền bạc trong Thiền viện.

BẢ THỦ

把手

Tay nắm tay.

VMQ ghi:

禪宗無門關、透得過者、非但親見趙州、便可與曆代祖師把手共行。

Người nào qua được cổng không cửa của Thiền tông, không những thấy được Triệu Châu, mà còn nắm tay lịch đại Tổ sư cùng đi.

BẢ THỦ CÁNH DỮ TRƯỢNG

把手更與杖

Đã đưa tay nâng đỡ còn đưa thêm cái nạng.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho Thiền sư khai thị người học bằng lời nói trùng lặp, rườm rà, không có thủ thuật xuất sắc.

Tiết Từ Vân Ngạn Long Thiền sư trong NĐHN q. 18 ghi:

上堂、擧、玄沙示衆曰。。。師曰:諸禪德、這箇公案、唤作嚼飯喂小兒、把手更與杖。還會麼?若未會、須是扣己而參。

Sư thượng đường, cử công án Huyền Sa thị chúng rằng… Sư nói Chư thiền đức, công án này được gọi là nhai cơm mớm cho trẻ nít, chẳng phải là thủ thuật xuất sắc. Có hội chăng? Nếu chưa hội, thì phải giam mình lại mà tham cứu.

BẢ THỦ DUỆ BẤT NHẬP

把手拽不

Nắm tay kéo mà không vào.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho mặc dù được dẫn dắt nhưng không vào cửa được. Không có pháp để cứu độ.

HĐNL q. 2 ghi:

僧云:未審二林見僧、作麼生接?師云:把手拽不入。

Tăng hỏi Chẳng hay lúc Nhị Lâm gặp Tăng, dẫn dắt ra sao? Sư nói: Nắm tay kéo mà không vào.

BẢ TRÓC

把捉

Nắm bắt.

LTL ghi:

處處討覓尋皆不見有生有死。唯有空名。幻化空花不勞把捉。得失是非、一時放却。

Tìm kiếm mọi nơi đều chẳng thấy có sinh có tử, chỉ có tên rỗng, như mộng huyễn, như hoa đốm giữa hư không, không nhọc nắm bắt, được mất phải quấy, buông xuống một lượt.

BẢ TRỤ PHÓNG HÀNH

把住放行

Còn gọi: Bả định phóng hành.

Bả trụ: Nắm chặt, khiến đối phương bặt dứt đường ngôn ngữ, mọi suy nghĩ. Phóng hành: Buông thả, giúp cho người học có phương tiện vào cửa.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho phương thức hoặc phong cách chẳng đồng khi lập bày cơ duyên.

VMQ ghi:

一人向深深海底行、簸土揚塵、一人於高高山頂立、白浪滔天。把定放行、各出一隻手、扶豎宗乘。

Một người đi dưới đáy biển sâu, bụi tung mù mịt; một người đứng trên đỉnh núi cao, sóng bủa ngất trời. Bả định phóng hành, mỗi người đưa ra một tay, nâng đỡ Thiền tông.

BÁC ĐỊA PHÀM PHU

博地凡夫

Người thường.

Tiết Phần Dương Đại Đạt Vô Nghiệp Quốc sư trong LĐHY q. 5 ghi:

十地諸聖、豈不通佛理?可不如一箇博地凡夫?實無此理。

Chư Thánh thập địa, há chẳng thông Phật lý? Vì sao chẳng bằng một người thường? Thật không có lý này.

BÁC HÍ

博戯

Cờ bạc, đánh bạc.

PDNL q. trung ghi:

若論此事、如人博戲相似。忽然贏得、身心歡喜、家業昌盛、覆阴兒孫。不覺輸他、自然迷悶。

Nếu luận về việc này thì giống như người đánh bạc. Bỗng nhiên thắng được, thân tâm vui mừng, gia nghiệp thịnh vượng, phúc ấm cho con cháu; còn như thua cuộc thì tự nhiên phải sầu muộn.

BÁC SƠN ĐẠI NGHĨ HÒA THƯỢNG QUẢNG LỤC

博山大艤和尚廣錄

X. Vô Dị Nguyên Lai Thiền sư quảng lục.

BÁC SƠN THIỀN SƯ

博山禪師

Thiền sư Nguyên Lai đời Minh.

Sau khi đắc pháp trụ Bác Sơn, người đời gọi là Bác Sơn Thiền sư.

X. Nguyên Lai.

BÁCH LÂM TỰ

柏林寺

Chùa Bách Lâm, nằm ở huyện Triệu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

Ban đầu tên là “Quán Âm Viện”, Triệu Châu Tùng Thẩm từng ở nơi đây. Thời Nam Tống đổi tên là “Vĩnh An Viện”, đến đời Kim mới gọi là “Bách Lâm Tự”. Trong chùa có linh tháp của Triệu Châu Tùng Thẩm, là tháp gạch bảy tầng hình bát giác, cho nên còn có tên “Bạch Tháp Tự”, “Cổ Phật Tự”. Ngoài ra còn có bia trùng tu do Nguyên Phong soạn vào niên hiệu Gia Tĩnh thứ 18 (1539) đời Minh, bia linh tháp ký do Huệ Cảo soạn vào niên hiệu Thành Hóa thứ 16 (1480) đời Minh.

BÁCH LÂM TỰ THÁP

栢林寺塔

Tháp chùa Bách Lâm. Nguyên là “Chân Tế Thiền sư tháp”, nằm ở phía Đông bắc nội thành huyện Triệu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

Chùa Bách Lâm được xây cất vào cuối đời Đông Hán; đời Tùy, Đường gọi là viện Quán Âm; đời Kim, Nguyên đổi lại là Thiền viện Bách Lâm. Trong chùa có một bảo điện thờ Thiền sư Chân Tế, có bích họa do Ngô Đạo Tử vẽ, hiện nay chùa không còn nữa, chỉ còn một tòa cổ tháp. Tháp được xây vào niên hiệu Thiên Lịch thứ 3 (1330) đời Nguyên, là một tòa tháp gạch mái kín, hình bát giác bảy tầng, cao khoảng 40m. Dưới tháp là cái bệ xây bằng đá, trên bệ có phủ một lớp gạch. Phần dưới tháp là một tòa Tu-di bằng gạch, có thắt lưng hai lớp, điêu khắc rất đẹp, có các hoa văn như kỹ nhạc, Kim cang lực sĩ, rồng, voi, sư tử, nai, hoa mẫu đơn v.v… Đồ án kết cấu sống động, hình tượng chuẩn xác, kỹ thuật khéo léo, mang phong cách dân gian sâu đậm, là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc bằng gạch tuyệt đẹp. Phần trên của tòa dùng gạch làm thanh đỡ mái che tòa bằng. Trên tòa bằng khắc thành lan can, trên lan can điêu khắc các loại đồ án hoa văn. Đặc điểm của tháp là thanh đỡ mái che hùng vĩ, vành mái thấp ló ra xa, điêu khắc và trang trí phong phú, đây là một kiệt tác trong các tháp đời Nguyên.

BÁCH LIỄU THIÊN ĐÁNG

百了千當

Trăm rành ngàn rõ, hoặc trăm ngàn ổn đáng.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho trạng thái giác ngộ triệt để.

Chương Phong Huyệt Diên Chiểu Thiền sư trong CĐTĐL q. 13 ghi:

問:百了千當時如何?師曰:不許夜行、投明須到。

Hỏi: Khi trăm rành ngàn rõ thì thế nào? Sư nói: Ban đêm không cho đi, sáng ngày bắt buộc phải đến.

BÁCH NẠP Y

百衲衣

Còn gọi: Tệ nạp y, Đàn nạp y.

Chỉ cho y vá.

Tứ y của tăng, dùng vải cũ rách, sửa sang may lại mà thành. Vì thường dùng 5 màu hoặc nhiều màu hỗn hợp may thành, nên còn gọi là Ngũ nạp y. Tăng lữ do đắp nạp y nên cũng tự xưng là Nạp tăng, Lão nạp, Bố nạp, Dã nạp, Chuyết nạp v.v…

Theo Thích Thị Yếu Lãm, q. thượng Nạp y vốn có 5 loại:

1. Hữu thí chủ y (y do thí chủ cúng).

2. Vô thí chủ y (y không do thí chủ cúng).

3. Vãng hoàn y (y may bằng vải liệm người chết).

4. Tử nhân y (y may bằng áo quàn người chết).

5. Phấn tảo y Chỉ cho y may bằng vải rách thành từng mảnh bị vất bỏ.

Có thể chia làm:

- Đạo lộ khí y (y may bằng vải vất bỏ ngoài đường).

- Phấn tảo xứ y (y may bằng vải bị quăng vào rác rưởi).

- Hà biên khí y (y may bằng vải bỏ bên bờ sông).

- Nghị xuyên phá y (y may bằng vải bị trùng kiến cắn).

- Phá toái y (y may bằng vải rách nát).

Nhưng sau khi Phật giáo thịnh hành, y phục của tăng ni không còn dùng các loại vải này.

BÁCH TẠP TOÁI

百雜碎

1. Lúng túng vô cùng.

Tắc 16, BNL ghi:

百雜碎、老婆心切且莫錯認。

Lúng túng vô cùng, tâm lão bà tha thiết xin chớ nhận lầm.

2. Đập nát bét (Vỡ thành trăm mảnh).

PDNL q. 1 ghi:

韶國師道。

通玄峯頂

不是人間。

心外無法

滿目青山。亦須百雜碎。何也盡乾坤大地不消一揑。然雖如是。事無一向。今夜且放過一著。

        Đức Thiều Quốc sư nói:

Thấu đỉnh Thông Huyền.

Chẳng phải nhân gian.

Ngoài tâm không pháp.

Đầy mắt non xanh

Cũng cần đập nát bét! Vì sao?

Vì hết thảy càn khôn đại địa chẳng cần một nắm. Tuy nhiên như thế, sự không nhất định. Đêm nay cũng cởi mở một phen!

BÁCH THIÊN NIÊN HẬU

百千年後

Trăm ngàn năm sau.

Thuật ngữ chỉ cho việc lãnh ngộ thiền nghĩa còn rất lâu. Đây là lời nói mà Thiền sư thường dùng để quở trách những người chưa tỉnh ngộ.

MGNL ghi:

進云:非但學人、四眾有賴。師曰:百千年後。

Tăng lại hỏi tiếp: Không những một mình con mà tứ chúng cũng được nhờ. Sư (Triệu Châu) nói: Trăm ngàn năm sau.

BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC

百丈懷海禪師語錄

Còn gọi: Hồng Châu Bách Trượng Sơn Đại Trí Thiền sư ngữ lục.

Ngữ lục, 1 quyển, do Bách Trượng Hoài Hải soạn vào đời Đường, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 118, trang 161.

Nội dung gồm có những cơ duyên ngữ cú của Bách Trượng Hoài Hải như “Linh quang độc diệu … tức như như Phật”. Từ những ngữ cú này chúng ta có thể nhận ra đặc điểm thiền học của Bách Trượng Hoài Hải, đó là chủ trương tâm tính chúng sinh xưa nay thành tựu viên mãn, chỉ cần chẳng bị vọng tưởng trói buộc liền chẳng khác với chư Phật.

BÁCH TRƯỢNG SƠN

百丈山

Còn gọi: Đại Hùng sơn.
Núi Bách Trượng, nằm ở phía Bắc của Tây thành, gần Đông Sơn huyện Phụng Tân, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc.

Thác nước từ trên núi cao rót xuống cao hơn ngàn thước, nên gọi là Bách Trượng. Hơn nữa, vì thế núi vượt hẳn các núi lân cận nên còn gọi là “Đại Hùng Sơn”. Niên hiệu Hưng Nguyên thứ 1 (784) đời Đường, Thiền sư Hoài Hải vào núi, coi việc xây cất Pháp đường, Tăng đường, sáng lập chùa Bách Trượng (còn gọi là Hương Dị Am), xiển dương Thiền tông. Các Thiền sư tụ hội về đây như Hoàng Bá Hy Vận, Quy Sơn Linh Hựu. Sau khi Tổ Bách Trượng thị tịch, Thiền sư Niết-bàn nối tiếp trụ trì. Ít lâu sau, Đường Tuyên Tông sắc đổi tên chùa thành “Đại Trí Thánh Thiền Tự”. Đời Tống có các vị thiền sư kế tiếp trụ trì như Minh Chiếu, Đạo Hằng, Bảo Nguyệt, Duy Chính, Nguyên Túc, Duy Cổ, Tịnh Ngộ… Vào niên hiệu Chí Thuận thứ 1 (1330) đời Nguyên, Đông Dương Đức Huy trùng tu Pháp đường, trên ấy xây cất gác Thiên hạ sư biểu, để thờ tượng ngài Hoài Hải. Niên hiệu Chí Nguyên thứ 1 (1335), biên tập lại “Bách Trượng Thanh Quy”, ban hành đến các Thiền viện toàn quốc. Núi Bách Trượng nhờ bản thanh quy này mà nổi tiếng khắp nơi. Niên hiệu Chính Thống thứ 7 (1442) đời Minh, Trung Trí biên tập bản thanh quy này lần nữa.

BẠCH AM THIỀN SƯ

白庵禪師

Hiệu của Thiền sư Lực Kim sống vào đời cuối Nguyên đầu Minh.

X. Lực Kim

BẠCH ẨN HUỆ HẠC (1686-1769)

白隱慧鶴

(J: Hakuin Ekaku), Thiền sư sống vào thời đại Đức Xuyên, hiệu Hộc Lâm, người Tuấn Hà (Suruga), thuộc tông Lâm Tế Nhật Bản.

Năm 15 tuổi sư xuất gia ở chùa Tùng Âm, nối pháp Tín Thọ lão nhân ở Phan Sơn, làm Đệ nhất tọa ở chùa Diệu Tâm. Sư được gọi là Tổ trung hưng tông Lâm Tế. Ngoài việc trùng tu chùa Tùng Âm, sư còn khai sáng chùa Quan Âm, chùa Tân Vô Lượng ở núi Diệu Trí, chùa Long Trạch ở Tam Đảo vv… Thụy hiệu Thần Cơ Độc Diệu Thiền sư, Chính Tông Quốc Sư. Tác phẩm: Ngữ lục 103 quyển, Hoè An Quốc Ngữ, 7 quyển, Tức Canh lục 1 quyển, Viễn La Thiên Phủ, Dạ Thuyền Nhàn Ngữ và Bích Sinh Thảo Tự truyện đều gom vào Bạch Ẩn Thiền sư toàn tập 6 quyển, trong đó cũng có chép thi văn, thư họa. v.v...

Theo: PQĐTĐ của nhóm Từ Di.

BẠCH CHÙY

白槌

Đánh kẻng hoặc đánh bảng để thông tri cáo bạch cho tăng chúng.

Bạch là cáo bạch, chùy là cái dùi. Bạch chùy là dùng dùi đánh lên tấm bảng để báo cho đại chúng giữ yên lặng. Người giữ việc bạch chùy gọi là Bạch chùy sư, phần nhiều do các vị tôn túc rành phép tắc đảm nhiệm.

Tổ Đình Sự Uyển q. 8 ghi:

白槌、世尊律儀、欲辨佛事、必先秉白、爲穆衆之法也。今宗門白槌、必命知法尊宿以當其任。長老才據座已、而秉白云:法筵龍象衆、當觀第一義。長老觀機法會酬唱既終、復秉白云:諦觀法王法、法王法如是。此蓋先德之眞規、皆不失佛意。且見叢林多擧世尊升座、文殊白槌。

Bạch chùy, theo luật nghi của Thế Tôn, muốn làm Phật sự, trước hết phải thưa bạch, là phép hòa chúng vậy. Ngày nay trong Thiền tông, bạch chùy ắt phải nhờ vị tôn túc biết pháp tắc đảm nhiệm việc ấy. Vị Trưởng lão vừa lên tòa xong, trình bạch rằng: Pháp diên long tượng chúng, đương quán đệ nhất nghĩa (Pháp hội của hàng Đại thừa, phải nên quán đệ nhất nghĩa). Khi thấy pháp hội xướng đáp đã xong, Trưởng lão lại trình bạch rằng: Đế quán Pháp vương pháp, Pháp vương pháp như thị (Quán kỹ pháp của Phật, pháp của Phật như thị). Đây là khuôn phép chân thật của Tiên đức, đều không sai ý Phật. Lại thấy trong tùng lâm phần nhiều cử bài Thế Tôn thăng tòa, Văn-thù bạch chùy.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

BẠCH CƯ DỊ (772-846)

白居易

Cư sĩ đời Đường, tự là Lạc Thiên, về già lấy hiệu “Hương Sơn Cư sĩ”. Trước ở Thái Nguyên (nay thuộc Sơn Tây), sau dời về Hạ Bì (nay là đông bắc huyện Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây), Trung Quốc.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ 16 (800), ông đỗ Tiến sĩ, lần lượt nhận các chức Hàn lâm học sĩ, Tả thập di, Tả tán thiện đại phu. Bởi đắc tội với bậc quyền quý, ông bị biếm làm Tư mã Giang Châu, rồi nhận chức Thứ sử Hàng Châu, Tô Châu; sau cùng làm Hình bộ Thượng thư. Về già sống ở Hương Sơn, Lạc Dương, lấy thơ, rượu làm niềm vui. Ông là thi nhân nổi tiếng vào đời Đường, sáng tác “Trường Hận Ca”, “Tỳ Bà Hành” được truyền tụng đã hơn ngàn năm nay. Ông chịu ảnh hưởng Phật giáo rất sâu, khi nhận chức Thứ sử Hàng Châu từng bái phỏng Thiền sư Điểu Khòa Đạo Lâm, và còn làm bạn với các vị tăng Như Mãn, Pháp Ngưng cùng tu tập thiền pháp. Ông lấy bổng lộc của mình tu bổ lại cổng chùa Hương Sơn. Về già, ông nương gá tinh thần vào tư tưởng Phật giáo; hễ có sáng tác văn chương liên quan đến việc giáo hóa là khen ngợi Phật giáo.

Tác phẩm: Bạch Cư Dị tập.

BẠCH HOA SƠN

白華山

X. Phổ Đà sơn.

BẠCH LONG TỔ SƯ

白龍祖師

Thiền sư Đạo Hy đời Ngũ Đại ở viện Bạch Long tại Thăng Sơn, người đời gọi là “Bạch Long Tổ Sư”.

X. Đạo Hy.

BẠCH MÃ HÒA THƯỢNG

白馬和尚

Thiền sư Hành Ái đời Tống ở núi Bạch Mã, Tương Châu (nay là Tương Phàn, Hồ Bắc), người đời gọi là Bạch Mã Hòa thượng.

X. Hành Ái.

BẠCH MÃ NHẬP LÔ HOA

白馬入蘆花

Bạch mã (ngựa trắng) cùng với Lô hoa (hoa lau) đều sắc trắng, cho nên khi ngựa trắng vào trong rừng hoa lau thì cùng với hoa lau đồng một màu, khiến cho mắt thường không thể nào phân biệt được.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho cảnh giới siêu việt tất cả kiến giải phân biệt nhân ngã, lớn nhỏ, cao thấp, tốt xấu.

Tắc 13, BNL ghi:

僧問巴陵:如何是提婆宗?(白馬入蘆花、道什麼點)。

Vị Tăng hỏi Ba Lăng: Thế nào là tông chỉ của Đề Bà? (Ngựa trắng vào rừng hoa lau, làm sao phân biệt?).

BẠCH MÃ THIỀN SƯ

白馬禪師

Thiền sư Đàm Chiếu đời Đường ở chùa Bạch Mã, Kinh Nam, Trung Quốc, người đời gọi là Bạch Mã Thiền Sư.

X. Đàm Chiếu.

 

view(952)