A

Posted by tranminhhuydn on Tue, 21/03/2017 56:08

A A A !

阿呵呵!

A ha ha!

Thán từ thường được dùng trong thiền ngữ.

Tiết Lang Nha Vĩnh Khởi Thiền sư trong NĐHN q. 19 ghi:

師上堂、良久、拊掌一下曰:阿呵呵!阿呵呵!還會麼?法法本來法。                 

Sư thượng đường lặng lẽ hồi lâu rồi vỗ tay một cái, nói: A ha ha! A ha ha! Có lãnh hội chăng? Pháp pháp đều là pháp xưa nay.


A DA HẠ HÀM

阿爺下頷

Còn gọi: A gia hạ hàm.

Xương hàm dưới của cha.

Thành ngữ nhằm mắng người ngu si, không phân biệt được chân, giả.

Tắc 78, TDL ghi:

以賊爲子、認奴作郎、破沐碏豈是先祖骨髏、驢鞍橋亦非阿爺下頷。

Nhận giặc làm con, cho tớ là chủ. Cái gáo bể há là đầu lâu của tổ tiên, cầu yên lừa cũng chẳng phải xương hàm dưới của cha mình.

A-DỤC VƯƠNG TỰ

阿育王寺

Chùa A-dục Vương.

Chùa nằm ở trấn Bảo Tràng, huyện Ngân, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Bởi trong chùa có cất giữ xá-lợi Phật Thích-ca và bảo tháp xá-lợi xinh xắn tinh vi cho nên vang danh trong ngoài nước, là chùa Thiền tông nổi tiếng, còn là một trong “Trung Hoa Ngũ Sơn” (Năm ngôi chùa bậc nhất Trung Hoa). Niên hiệu Đại Khang thứ 3 (282) đời Tấn, Lưu-tát-ha (pháp danh Huệ Đạt) được một tháp xá-lợi ở nơi đây, tương truyền là một trong 84.000 tháp do vua A-dục xây cất, bên trong chứa di cốt của Phật Thích-ca sau khi niết bàn. Lưu-tát-ha xây cất tinh xá ngay chỗ có bảo tháp để tu trì hành đạo. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 1 (405) đời Đông Tấn xây tháp đình để cung phụng bảo tháp. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 2 (425) đời Lưu Tống, tăng nhân đạo hữu xây cất thêm điện vũ. Niên hiệu Phổ Thông thứ 3 (522) đời Lương, vua ban tấm biển “A-dục Vương Tự”. Vốn là Luật viện, niên hiệu Đại Trung Tường Phù thứ 1 (1008) đời Tống, vua Tống Chân Tông ban cho tấm biển “Quảng Lợi Thiền Tự” liền trở thành Thiền tự. Niên hiệu Hồng Vũ thứ 15 (1382) đời Minh, đặt tên là “Dục Vương Thiền Tự”, tục gọi là “A-dục Vương Tự”. Từ ngàn năm nay, chùa này được sự sùng bái của rất nhiều vua chúa và sự hộ trì các bậc cao tăng. Vua Tống Cao Tông đích thân viết “Phật Đảnh Quang Minh Chi Tháp”, vua Tống Hiếu Tông viết “Diệu Thắng Chi Điện”. Tô Đông Pha làm văn bia về Thần khuê các trong chùa, bia dựng bên điện Xá-lợi. Thời vua Tống Anh Tông (1064-1067), Đại Giác Hoài Liễn trụ trì chùa này, nêu cao tông phong, sau đó kinh qua sự tổ chức của các vị Thiền sư như Tông Cảo, Giới Kham, Đức Quang, Sư Phạm đạo tràng Lâm Tế hưng thịnh một thời. Kiến trúc chủ yếu của A-dục Vương Tự có Xá-lợi điện, Đại hùng bảo điện, Thần khuê các, Vân thủy đường, Tàng kinh lâu hơn 600 gian. Điện vũ trong chùa hùng vĩ, khí thế nguy nga, mái cong cao vút, lưu ly che đỉnh xanh vàng rực rỡ. Xung quanh chùa núi non trùng điệp, tùng bách cao vút, quang cảnh núi sông làm nổi bật ngôi cổ sát ngàn năm.

A-DỤC VƯƠNG TỰ THÁP

阿育王寺塔

Tháp chùa A-dục Vương.

Tháp ở phía Tây chùa A-dục Vương thuộc trấn Bảo Tràng, huyện Ngân, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Được xây cất vào đời Đường, được xây lại vào niên hiệu Chí Chính thứ 25 (1365) đời Nguyên. Tháp làm bằng gạch cao 36m, hình lục giác bảy tầng theo kiểu lâu các, là một kiến trúc điển hình đời Nguyên. Mỗi tầng đều có khám thờ tượng Phật đắp trên vách, hiện nay không còn nữa. Trong tháp có đường đi lên đỉnh tháp. Một tòa trên núi gọi là “Thượng tháp”, một tòa dưới núi gọi là “Hạ tháp”. Hai tòa tháp này đứng cao vút giữa rừng trúc rậm dài cùng núi non xinh đẹp, điện vũ nguy nga tạo thành một quang cảnh tùng lâm của ngôi chùa xưa hạng nhất miền Nam Trung Quốc.

A GIÁC NỮ

丫角女

Cô gái nhỏ tuổi.

Chữ a ( ) còn đọc là nha, có nghĩa là xòe ra thành hai góc. A giác chỉ tóc các cô gái còn nhỏ tuổi tết thành hai trái đào trông như hai cái sừng.

Tiểu truyện Thiền sư Giác Hải trong TUTA ghi:

丫角女頭白

報儞作者識

若問佛境界

龍門遭點額。

Bé gái đầu bạc phơ

Bảo khách thiền kiệt xuất

Cảnh giới Phật hỏi bàn

Long môn bị điểm trán.

A LỘC LỘC ĐỊA

    阿漉漉地

Chữ Lộc cũng viết  .

1. Trạng thái tự do tự tại.

Tắc 53, BNL q. 6 ghi:

我適來哭、如今却笑、看他悟後、阿漉漉地、羅籠不住、自然玲瓏。

Vừa rồi tôi khóc, bây giờ lại cười. Xem ông ta (Bách Trượng) sau khi ngộ tự do tự tại, không ai khống chế được, tự nhiên linh hoạt.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

2. Trạng thái mềm và ướt. Thuật ngữ Thiền tông dùng để mô tả Thiền sư căn cơ chậm lụt.

Tiết Bảo Phong Khắc Văn Thiền sư trong NĐHN q. 17 ghi:

馬祖下尊宿、一箇箇阿漉漉地、唯有歸宗老較些子。

Các vị tôn túc môn hạ Mã Tổ, ai nấy cũng chậm lụt, chỉ có Quy Tông là khá hơn một chút.

Theo: TTTĐ nhóm Viên Tân.

A SƯ

阿師

Cái ông tăng này! Tiếng thân thiết để gọi một vị tăng. A là phát ngữ từ (từ đầu).

Tiết Đạo Nhất, đời thứ hai dưới Đại Giám trong CTTNL q.1 ghi:

師曰:這鈍根阿師。

Sư bảo: Cái ông tăng chậm lụt này!

A THỈ TỐNG NIỆU

屙屎送尿

Đi ỉa đi đái. Khi ỉa gọi là a thỉ, đi đái gọi là tống niệu.

Lâm Tế Huệ Chiếu Thiền sư ngữ lục ghi:

屙屎送尿、著衣喫飯、困來即臥、愚人笑我、智乃知焉。     

Đi ỉa đi đái mặc áo ăn cơm, mệt mỏi thì nằm nghỉ, kẻ ngu cười ta, người trí biết ta.

Thuật ngữ Thiền tông biểu thị mọi sinh hoạt hàng ngày đều là việc làm của Phật, hạnh của Phật.

LGL, q. thượng ghi:

慈明呵曰:著衣喫飯、不是畢竟、屙屎送尿、不是畢竟。

Từ Minh mắng rằng: Mặc áo ăn cơm chẳng phải là cứu cánh, đi ỉa đi đái chẳng phải là cứu cánh.

Á

 啞

  1. Á! Thuật ngữ này được dùng trong trường hợp người học tuy muốn biểu hiện sở đắc của riêng mình, nhưng khi ấy tận cùng ngôn ngữ cũng không cách gì biểu đạt; hoặc là thuật ngữ dùng để biểu thị chân lý Phật pháp mà không dùng lời nói.

Phần Khám Biện trong LTNL ghi:

 師問杏山:如何是露地白牛?山云:吽吽。師云:啞那。                       

Sư hỏi Hạnh Sơn: Thế nào là con trâu trắng sờ sờ? Sơn đáp: Hồng! Hồng! Sư nói: Á.

2. Biểu thị tiếng cười, tiếng quạ kêu.

Còn gọi: Á á.

Tắc 14, BNL ghi:

閻浮樹下笑呵呵、昨夜驪龍拗角折(非止驪龍拗折、有誰見來?還有證明麼?啞!)。

Dưới cội Diêm Phù cười ha hả, đêm trước rồng đen bị gãy sừng. (Chẳng phải cấm rồng đen gãy sừng, có ai thấy chăng? Có chứng minh được chăng? Á!).

À (HỌA)

 

À - Chỉ cho tiếng kéo thuyền hoặc tiếng la lên khi tìm được món đồ rơi mất.

Trong nhà Thiền dùng để chỉ tiếng À khi hốt nhiên đại ngộ.

Điều Trường Sa Cảnh Sầm trong Thiền tông Tụng Cổ Liên Châu Thông tập q. 16 ghi:

你作麼生用?師拍胸與一踏。山曰:㘞。

Ông dùng như thế nào? Sư thộp ngực đạp cho một đạp. Sơn nói: À!

TQST ghi:

首座入堂燒香、打香匣作聲、忽然㘞地一聲、識得自己。

Vị Thủ tọa lên thiền đường thắp nhang, khua hộp nhang phát ra tiếng, thình lình ông À lên một tiếng, biết được chính mình.

Á TỬ ĐẮC MỘNG

  啞子得夢

Còn gọi: Á tử khiết hoàng liên (Người câm ăn trái đắng), Á tử khiết khổ qua (Người câm ăn dưa đắng), Lãnh noãn tự tri (Lạnh nóng tự biết).

Người câm chẳng thể đem cảnh chiêm bao của mình kể cho người khác nghe.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người tu thiền không thể đem cảnh giới thể ngộ của mình để nói với kẻ khác.

Trong VMQ, thiền sư Vô Môn bình rằng:

參箇無字、晝夜提撕、莫作虛無會、莫作有無會。如吞了箇熱鐵丸相似。 吐又吐不出、蕩盡從前惡知惡覺、久久純熟。自然內外、打成一片。如啞子得夢只許自知。

Hãy tham chữ Vô, ngày đêm đề khởi, chớ hiểu như hư vô, chớ hiểu như hữu vô, giống như người nuốt phải một hoàn sắt nóng muốn mửa ra cũng chẳng được. Quét sạch các ác tri ác giác từ trước, lâu ngày thuần thục, tự nhiên trong ngoài kết thành một khối, như người câm nằm mộng, chỉ tự biết mà thôi.

Bởi vì đây là biểu thị lấy tâm truyền tâm, ý thức và lời nói chẳng đạt đến được.

ÁC THỦ ĐOẠN

惡手段

Thủ thuật hiểm ác, dữ dội của thiền sư cao minh khi tiếp dẫn người học.

Khai thị thiền nhân Bỉnh trong MANL ghi:

直是撥草瞻風。覓箇咬豬狗惡手段與他做冤家,眉毛厮結禁得惡拳趯吃得沒滋味,大爐鞲中,天鍛萬煉。徹底淨盡跳得出。

Quả tình trèo non lội suối, đi tìm bậc thiền sư cao minh có thủ thuật dữ dội, sẽ cùng ông ta gây oán thù hoặc là thâm sâu giao kết, chịu đựng được những trận đòn rất ác, chịu nổi cái vô vị trong lò rèn lớn, trui qua luyện lại ngàn muôn lần, hết sức sạch sẽ thì mới nhảy ra được.

AI TẠT

挨拶

 Xô đẩy. Ai là xô, Tạt là đẩy.

 Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho việc dùng ngôn ngữ và động tác nặng nhẹ để khám nghiệm lẫn nhau giữa thiền sư và người học đạo.

Phần lời dẫn trong tắc 23 của BNL q. 3 ghi:

玉將火試、金將石試、劎將毛試、水將杖試。至於衲僧門下、一言一句、一機一境、一出一入、一挨一拶、要見深淺、要見向背。且道:將什麼?試請擧看。

Lấy lửa thử ngọc, lấy đá thử vàng, dùng lông thử kiếm, dùng gậy dò nước. Còn như những cách của thiền sư như: Một lời một câu, một cơ một cảnh, một ra một vào, một xô một đẩy, đối với đệ tử muốn thấy sâu cạn, mặt trái mặt phải của y thì phải lấy cái nào để khám nghiệm đây? Xin thử nêu ra xem!

Phần giải thích cũng trong tắc này của BNL ghi:

保福、長慶、鏡清總承嗣雪峯、他三人同得同證、同見同聞、同拈同用。一出一入、逓相挨拶。

Bảo Phúc, Trường Khánh, Cảnh Thanh, đều là những vị kế thừa Tuyết Phong. Ba người đồng đắc đồng chứng, đồng kiến đồng văn, đồng niêm đồng dụng, một ra một vào, thay nhau khám nghiệm.

ÁI TRƯỚC

藹著

Nổi bật, vẻ vang (thanh danh).

Tiết Sở Thạch Hòa thượng hành trạng trong PKNL q. 20 ghi:

是時(梵琦)文采炳蔚、聲光藹著、兩浙名山宿德爭欲招致座下。

Khi ấy (Phạm Kỳ) phong thái sáng rực, tiếng tăm vẻ vang, những bậc thiền đức của các danh sơn ở vùng Lưỡng Chiết tranh nhau muốn thu nhận sư về dưới tòa mình.

ẢI SƯ THÚC

矮師叔

chú lùn.

Thiền sư Khuông Nhân sống vào đời Ngũ Đại, trong pháp hội của thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn, bởi thân thể sư lùn thấp nên bị đệ tử của Hương Nghiêm gọi là “Ải sư thúc”.

 X. Khuông Nhân.

ÁI TỬ KHÁN HÍ TÙY NHÂN THƯỢNG HẠ

矮子看戲隨人上下

Người lùn đi xem hát. (Hắn chẳng trông thấy gì nhưng cũng bắt chước người khác vỗ tay tán thưởng).

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người tu thiền, pháp nhãn chẳng sáng, chỉ làm theo người khác một cách máy móc, còn bị người ta khống chế.

PDNL q. trung ghi:

忽有箇出來道。長老爾恁麼道也。則白雲萬里。者箇說話。喚作矮子看戲、隨人上下。三十年後一場好笑。且道笑箇什麼?笑白雲萬里。

Chợt có một vị tăng bước ra nói: Thưa trưởng lão, ông nói thế ấy cũng là muôn dặm mây trắng! Lời nói này còn gọi là người lùn đi xem hát, chẳng trông thấy gì nhưng cũng bắt chước người khác vỗ tay tán thưởng, ba mươi năm sau vẫn còn thấy tức cười. Thử hỏi cười cái gì? Cười muôn dặm mây trắng.

AM

庵、菴

Ngôi nhà nhỏ để thờ Phật, thường có một hai vị tăng ở ẩn tu.

Từ kết hợp đứng sau danh từ để tạo thành tên gọi chỗ ở của các thiền sư. (Ví dụ Bạch Am, Chỉ Am, Dị Am, Hoặc Am...).

AM TRUNG BẤT TỬ NHÂN

庵中不死人

Người bất tử trong am.

Thuật ngữ chỉ cho Phật tánh sẵn có của mọi người. Am là dụ cho nhục thân, bất tử nhân dụ cho Phật tánh.

CĐTĐL q.30 ghi:

欲識庵中不死人

豈離而今遮皮袋

Muốn biết trong am người bất tử,

Đâu rời túi da ngăn che này?

ÁM CHỨNG THIỀN SƯ

暗證禪師

Còn gọi: Manh thiền giả, Ám thiền Tỳ kheo.

Thiền giả mù mờ.

Thuật ngữ nhằm chế giễu thiền giả của các tông phái ngoài Thiền tông như Giáo môn chẳng hạn, nhất là chỉ các vị thiền sinh ưa chấp trước thiền định, không nghiên cứu giáo pháp, hiểu biết lờ mờ, lại kiêu mạn tự cho mình là đúng.

ÁM ĐẦU

暗頭

Trong bóng tối, chỗ tối tăm.

Tiết Trấn Châu Phổ Hóa Hòa thượng trong NĐHN q. 4 ghi:

於北地行化、或城巿、或塚間、振一鐸曰:明頭來、明頭打。暗頭來、暗頭打。四方八面來、旋風打、虛空來、連架打。

Sư hành hóa ở đất Bắc, hoặc là chốn thành thị, hoặc là nơi gò mả, lắc một cái linh nói: Chỗ sáng đến thì đánh chỗ sáng, chỗ tối đến thì đánh chỗ tối, tám mặt đến thì xoay vần mà đánh, hư không đến thì đánh cả hư không.

AN BAN THỦ Ý KINH

安般守意經

Kinh căn bản của Thiền tông, do An Thế Cao dịch từ Phạn ra Hán, Trần Tuệ chú giải, Thiền sư Khương Tăng Hội (?-280) bổ túc và viết bài tựa. Đây là một trong những bộ kinh Phật được chú giải đầu tiên ở Giao Chỉ trong thời Phật giáo mới du nhập vào Việt Nam. Nội dung dạy cách tọa thiền đếm hơi thở, quán niệm hơi thở để giữ tâm ý không bị tán loạn.

AN LẠC ĐƯỜNG

安樂堂

Nhà để dành riêng cho các vị tăng già yếu trong các chùa thời xưa.

AN LẠC THIỀN VIỆN

安樂禪院

http://thuongchieu.net/images/cacthienvien/gioithieu/anlac/tvanlac.jpg  

 

Thiền viện An Lạc vốn là thiền viện Thuần Nguyên, tọa lạc trên mảnh đất rộng 4000m2 trong khu Thường Chiếu. Địa chỉ: 230 ấp 1C xã phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, do Hòa thượng Viện trưởng cấp cho hai ni sư Thuần Chơn và Thuần Tịnh.

Trên 30 năm, biết bao nhiêu thay đổi! Từ thất đá Hòa Vân trên Núi Lớn Vũng Tàu, theo Chơn Không xuống núi về Thường Chiếu Long Thành, Thuần Nguyên chỉ là một thiền thất nhỏ được thành lập trong khung cảnh hoang dã đơn sơ, mái tôn, sườn tre, vách đất. Chung quanh thất trồng điều và mít, còn lại đều là cỏ tranh và mắc cỡ, cao quá đầu người. Song với công sức của hai ni sư cùng với sư cô Nguyên Tuệ và vài Phật tử, khu vườn lần lần mở rộng thành những luống rau, giồng khoai, đậu phọng, tràm bông …

Ni chúng tăng dần từ 3 đến 7 … Đến nay đã trên 30 vị.

Để đáp ứng nhu cầu tu học cho Ni chúng, thiền thất được trùng tu : Chánh điện, Tổ đường, Phòng học, Nhà khách, Ni đường, Trai đường, khu nhập thất v.v… được mở rộng. Phương trượng cho quí Ni sư cũng được sửa sang xây dựng lại. Từ đó, thiền thất Thuần Nguyên được Hòa thượng Tôn sư đổi tên thành thiền viện An Lạc.

+ Việc tu học của thiền viện An Lạc được thực hiện theo chủ trương “Thiền giáo song hành” của Hòa thượng Tôn sư.

 Ngoài việc nghe băng giảng của Sư ông, ni chúng được học thêm kinh, luật, luận do quí ni sư cùng với giáo thọ của viện đảm trách.

Vào mỗi cuối tháng, có 3 ngày chuyên tu. Mỗi ngày có hai thời sám hối và bốn thời ngồi thiền. Vào mùa an cư, thời gian tăng lên một tuần. Có thêm sự tham gia của chư Ni ở các am thất và các Phật tử thuần thành đến tu tập.   

+ Thời khóa của Ni chúng được áp dụng theo thời khóa chung của các thiền viện :

Khuya : Tọa thiền

Sáng : Lao tác

Chiều : Học kinh hoặc tọa thiền

Tối : Tụng sám hối và tọa thiền

+ Quí Ni sư giúp ghi lại một phần những bài giảng của Sư ông (gồm kinh luật luận và những tác phẩm Thiền tông đời Trần).

+ Sư cô Nguyên Thanh và Nguyên Tỉnh, mỗi tuần một buổi, nhắc nhở lại lời dạy của Sư ông cho các bậc lão ni ở thiền viện Hoa Viên.

Thiền viện An Lạc được hình thành và vững bước đến nay trước là nhờ uy đức và công lao hoằng hóa độ sinh của Hòa thượng tôn sư, sau là nhờ sự giúp đỡ của Hòa thượng Thường Chiếu và sự chăm sóc dạy dỗ của hai Ni sư. Cũng chính từ những ân đức đó, Ni chúng thiền viện An Lạc đã chung sống hài hòa, tinh tấn tu học đúng như tên gọi mà Hòa thượng đã ban cho.

AN LÃO

安老

Có ba nghĩa:

1. Liêu phòng của những vị tăng già cả hoặc những vị nhập thất ở trong phạm vi thiền viện. Những người ở liêu phòng, nếu đã bảy tám mươi tuổi thì được miễn trừ mọi công việc hàng ngày, thức ăn uống được cung cấp đầy đủ

2. Chỗ ở của những vị tăng lớn tuổi, thân thể suy nhược.

3. Người tuy đã già nhưng phát đạo tâm tu hành trong Tăng đường cũng gọi là an lão.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

AN LĂNG NGHIÊM

安楞嚴

Thiền sư Ngộ An đời Tống, thường xem kinh Thủ Lăng Nghiêm nên được người đời gọi là An Lăng Nghiêm.

X. Ngộ An.

AN CƯ TỰ

安穩寺

X. Tĩnh Cư tự.

AN TÂM

安心

Có ý, cố tình.

HSLNMD, q. 2 ghi:

若安心先求妙果、即希求之心便是生死根本碍正知見。

Nếu cố tình trước cầu diệu quả, tức có tâm mong cầu chính là cội rễ sinh tử, chướng ngại chính tri kiến.

AN TÂM LẬP MẠNG

安心立命

Hết lòng vì nhân gian mà hành đạo và tùy thuận mạng trời mà an tâm, không bị tất cả những sự vật bên ngoài làm dao động.

Lập mạng vốn là dụng ngữ của Nho gia. Thiên “Vi chính” trong Luận ngữ ghi: Ba mươi tuổi biết tự lập, bốn mươi tuổi chẳng nghi hoặc, năm mươi tuổi biết mạng trời. Thiên “Tận tâm” trong Mạnh Tử cũng đề ra: Dù sống lâu hay chết yểu cũng không hai lòng, chỉ tu thân để đợi mạng trời, đó là cách lập mạng. Những câu vừa dẫn trên đều hàm ý tu thân dưỡng tánh, hành theo mạng trời, không bị vật bên ngoài làm dao động, sai sử. Về sau, thuật ngữ này được Phật giáo mượn dùng để chỉ cho việc an tâm của chính mình.

TMMBTSTL q. trung ghi:

欲四大分散時向何處安心立?

Khi tứ đại phân tán thì an tâm lập mạng vào đâu?

AN TÂM THIỀN VIỆN

安心禪院

 

  

Năm 2005 chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã cấp cho thiền phái Trúc Lâm 40 ha rừng để xây dựng thiền viện Ni ở phía bắc. Ni sư Thuần Giác được chỉ định ra Bắc nhận lãnh việc xây dựng này. Vào ngày 19 tháng 2 năm Mậu Tý (26/03/2008) vừa qua, quí thầy ở Thiền viện Trúc Lâm, Trúc Lâm Tây Thiên, Sùng Phúc, quí sư cô thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên Ni cùng với quí Phật tử đã làm lễ khai móng xây dựng chánh điện. Hiện nay thiền viện đã xây dựng được phần bờ kè ...

AN THIỀN

安禪

Còn gọi: An tâm pháp môn, An lạc pháp môn.

An trụ tọa thiền. Nếu nhờ an trụ tọa thiền mà tâm bình lặng thì gọi là an thiền tĩnh lự.

CĐTĐL q. 28 ghi:

拔生死深根獲見前三昧,若不安禪靜慮,到遮裏總須茫然。

Nhổ rễ sâu sanh tử, được tam muội hiện tiền; nếu không an thiền tĩnh lự, đến chỗ này hẳn đều mờ mịt.

Ngoài ra lúc tọa thiền hành giả không bị hoàn cảnh chi phối, nhất tâm tự tại vô ngại, không cần phải ở nơi khe suối nhàn tĩnh, cũng gọi là an thiền.

 Tắc 43 BNL ghi:

安禪不必須山水,

滅卻心頭火自涼

An thiền đâu cần nơi sông núi,

Tắt hết lửa phiền tâm mát tươi.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

AN TÒA

安座

An trí tượng Phật nơi chính điện.

Bất luận là tượng Phật mới hay cũ, hễ khi thờ tượng Phật trong điện thì phải thỉnh vị tôn sư khai thị pháp ngữ để an tòa, nghi thức này gọi là an tòa Phật sự. Nếu tượng Phật mới chưa khai quang điểm nhãn thì được tổ chức an tòa Phật sự cùng một lúc, vì trong pháp ngữ lúc an tòa, có đủ cả hai ý nghĩa này. Tuy khai quang điểm nhãn và tổ chức an tòa cùng một lúc, nhưng cả hai nghi thức ấy cùng thỉnh một vị thầy mà thôi.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

AN TRƯỚC

安著

Sắp đặt, xếp gọn.

DTNL q. 2 ghi:

十方空索索、全體露堂堂、貪瞋癡從那里得來?戒定慧向何處安著。

Mười phương trống hoang hoác, toàn thể bày rõ ràng, tham sân si từ nơi đâu được? Giới định huệ nhằm chỗ nào sắp đặt?

AN Ý

安意

Yên lòng, yên trí, yên tâm.

NHQL q. 30 ghi:

人之常情喜自便而畏檢束、則又不肯安意於此、故律學之最易、却成最難也。

Lẽ thường tình của con người là thích buông lung mà sợ kiềm chế, lại còn chẳng chịu yên lòng ở đây, nên luật học vốn rất dễ trái lại trở thành rất khó.

ÁN ĐẦU

案頭

Cái bàn dài sử dụng khi chúng tăng xem đọc kinh luận hoặc uống trà trong các liêu của tự viện Thiền tông.

Giờ nghỉ ngơi sau khi tham thiền, đại chúng trở về các liêu, đến bàn dài ngồi đối diện nhau uống trà. Trên bàn dài trong liêu, không được an trí tượng Phật, Bồ-tát để tránh tội bất kính.

Theo: PQĐTĐ nhómTừ Di.

ÁN HẮC ĐẬU

唵黑豆

Ngậm đậu đen.

Thuật ngữ chỉ cho việc trách người chỉ căn cứ vào văn tự của kinh điển để lý giải mà lơ là chân ý ẩn chứa bên trong.

AN VỊ SÀNG TRƯỚNG

按位床帳

Giăng mùng trên đơn của mỗi người trong Tăng đường để ngủ. Vị, còn gọi là bị vị, tức trong phòng liêu mỗi người đều có chiếu ngồi. Sàng trướng là mùng của chúng tăng.

Phần Duy-na, TUTQ q.3 ghi:

堂司竝供頭行者,備辨寮舍門戶牕牖,按位牀帳,動用什物。

Duy-na cùng Cung đầu hành giả phải trông nom cửa ngõ, cửa sổ, sắp đặt phòng xá, giăng mùng trên đơn của mỗi người trong Tăng đường và các đồ vật lặt vặt thường dùng.

Theo: PQĐTĐ nhóm Từ Di.

ANH VŨ THIỀN

鸚鵡禪

Thiền con két.

Thuật ngữ Thiền tông chỉ cho người học đạo chẳng rõ thiền ý, chỉ học vài câu cơ phong chuyển ngữ thuộc lòng lưu loát giống như con két, gặp người liền nói, gặp Phật cũng ca ngợi. Như nói Tâm ông là Phật, tánh ông là pháp, Phật pháp không hai tức là tăng bảo đâu cần cầu bên ngoài? Bất tức bất ly là ý Tổ sư vốn không nhọc công tu chứng. Suốt ngày thường nói như thế, khiến người khác không muốn nghe. Nếu bị người hỏi vặn Thế nào là Phật? liền cứng họng, không lời để đối đáp.

ẢNH ĐƯỜNG

影堂

Còn gọi: Tổ đường, Tổ điện, Đại sư đường, Khai sơn đường.

Chỉ ngôi nhà đặt ảnh tượng các Tổ sáng lập tông phái hoặc các bậc cao tăng, ngày xưa ảnh đường là nơi người dân Trung Quốc thờ phụng tổ tiên. Về sau, Phật giáo mượn hai chữ này để chỉ ngôi điện đường an trí di tượng của Tổ sư.

Theo Tống Cao Tăng Truyện q. 25, tại Trường An có thiết lập ảnh đường của đại sư Thiện Đạo đời Đường.

 

view(968)