Hòa thượng Thích Thanh Từ

Posted by tranminhhuydn on Sat, 05/09/2015 18:01

Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trần Hữu Phước
(1924 -)

Nhà tu hành Phật giáo. Hòa thượng sinh tại Ấp Tích Khánh, Xã Thuận Mỹ, Huyện Trà Ôn, Tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ của Hòa Thượng húy Trần Văn Mão, thân mẫu húy Nguyễn Thị Đủ. Gia đình sống thanh bần, chăm lo tích phước hành thiện. Hòa Thượng sinh ra và lớn lên trong gia đình nghèo khó, nên từ thời niên thiếu đã phải làm lụng vất vả. Ngay lúc còn thơ ấu đã có tư chất trầm mặc, ít nói, thích đọc sách. Người rất mực hiếu thảo với cha mẹ và đã sớm phát lộ chí nguyện xuất trần.


 

Sớm chìm nổi trong dòng đời cơ cực giữa thời buổi chiến tranh loạn lạc, Hòa Thượng càng thấm thía nỗi đau xót thống khổ của con người, hằng ôm ấp tâm niệm: “Nếu tôi không thể làm một viên linh đơn cứu tất cả bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ.” Nhân duyên chín muồi, từ đó cuộc đời Hòa Thượng rẽ sang con đường sáng như chí nguyện. Ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu, 1949, sau ba tháng công quả tại chùa Phật Quang, xứ Bang Chang, Trà Ôn, Hòa Thượng được tổ Thiện Hoa thế phát xuất gia, pháp danh là Thích Thanh Từ. Từ đây người siêng năng cần mẫn theo tổ công phu bái sám, dốc chí học Phật với một bản hoài được xác lập ngay từ lúc bước chân vào đời Tăng lữ: học hiểu Phật Pháp, tu đến nơi đến chốn, giúp người khác cùng tu. Năm 1949-1950 Hòa Thượng theo học năm thứ 3 lớp Sơ Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Phật Quang.

Năm 1951 Hòa Thượng học lên Trung Đẳng cũng tại chùa Phật Quang, sau dời lên chùa Phước Hậu. Tại đây Hòa Thượng thọ giới Sa Di do tổ Khánh Anh làm Hòa Thượng Đàn Đầu.

Năm 1953, hòa Thượng theo Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn tiếp tục học Trung Đẳng tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang và thọ giới Cụ túc tại chùa Ấn Quang do tổ Huệ Quang làm Hòa Thượng. Từ năm 1954-1958 Hòa Thượng học Cao Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt. Như vậy, Hòa Thượng đã trải qua 10 năm học Phật, bắt đầu từ Phật Học Đường Phật Quang, Trà Ôn, kết thúc tại Phật Học Đường Nam Việt, Sài Gòn. Từ đây bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa Thượng là một trong các vị Giảng Sư Ban Hoằng Pháp có uy tín lớn, được Tăng Ni Và Phật Tử xa gần mến mộ. Từ năm 1960-1966 Hòa Thượng đã giữ các chức vụ trong Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.

+ Phó vụ trưởng Phật học vụ.
+ Vụ trưởng Phật học vụ.
+ Quản viện kiêm giáo sư Phật Học Viện Huệ Nghiêm.
+ Giảng sư các phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm.
+ Giảng sư Đại Học Vạn Hạnh.

Cuối năm 1966, sau khi bế giảng khóa trung đẳng chuyên khoa tại Phật học Viện Huệ Nghiêm, Hòa Thượng xin phép Bổn Sư và Giáo Hội xin nghỉ việc để tìm chỗ ẩn tu. Chí đã quyết, người lên núi Tương Kỳ tại Vũng Tàu, dựng Pháp Lạc Thất dốc chí tu hành cho đến sáng đạo. Tháng tư năm Mậu Thân 1968, Hòa Thượng tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu không sáng đạo, thề không ra thất.” Đến tháng 7 nhuần năm ấy, Hòa Thượng đã đạt lý Sắc Không, thấu suốt Thật Tướng Bát Nhã. Từ đây giáo lý Đại Thừa và thâm ý Thiền được ngài khám phá tường tận. Mùng 8 tháng chạp năm Mậu Thân, Hòa Thượng ra thất với niềm hân hoan của Tăng Ni Phật Tử xa gần. Người tuyên bố “đã đến lúc làm Phật sự”. Từ đây, nước cam lồ rưới khắp, suối Từ Bi tuôn chảy nơi nơi. Pháp Lạc Thất xứng đáng là linh hồn của dòng Thiền Chơn Không. Nơi đây, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong đời tu của Hòa Thượng, mở ra một giai đoạn mới cho Phật Giáo Việt Nam và Thiền Tông Việt Nam đã viết nên trang sử mới, rực rỡ huy hoàng cuối thế kỷ 20. Năm 1970. Hòa Thượng thành lập Tu Viện Chơn Không trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu, mở khóa tu Thiền đầu tiên với 10 thiền sinh. Năm 1974, cùng với Tu Viện Chơn Không, lập thêm 2 Thiền Viện Bát Nhã và Linh Quang cũng tại Vũng Tàu, mở khóa 2 với hàng trăm Tăng Ni tu học và hàng trăm Phật Tử thính pháp. Từ đây Hòa Thượng khởi đầu thực hiện hoài bão khôi phục Thiền Tông Việt Nam, lấy tinh thần Phật Giáo Thiền Tông đời Trần làm kim chỉ nam cho mọi công trình giáo dục Tăng Ni, hoằng dương Phật Pháp. Từ sau năm 1975 bắt đầu giai đoạn chuyển mình trong sự nghiệp phục hưng và hoằng hóa Thiền Tông Việt Nam của Hòa Thượng. Đầu tiên, các Tu Viện, Thiền Viện trong khu vực núi Lớn, Vũng Tàu dời về Long Thành, Bà Rịa, phát triển thành các Thiền Viện mang tên CHIẾU: Thường Chiếu (1974), Viên Chiếu (1975), Huệ Chiếu (1979), Linh Chiếu (1980), Phổ Chiếu (1980), Tịch Chiếu (1987), Liễu Đức (1986). Năm 1993 thành lập Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt. Từ đây dựng lập tông phong, đẩy mạnh công cuộc phục hưng và hoằng hóa Thiền Tông Việt Nam, khởi đầu công cuộc phục hưng Thiền Tông đời Trần. Bước sang thế kỷ 21, hoa Thiền nở rộ trên đất nước Việt Nam và các nước thuộc các châu lục trên thế giới. Năm 2002, khởi đầu là công trình tái thiết Chùa Lân, lập thành thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử, khơi dậy mạch nguồn Thiền chốn Tổ. Đến năm 2005, dựng lập Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, khơi dậy mạnh nguồn Thiền nơi chiếc nôi của Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam. Nguồn nước Phật Pháp từ đây tuôn chảy khắp miền đất nước. Cho đến nay đã có trên 60 Thiền Viện, Thiền Tự được thành lập và trên 100 đạo tràng học Phật tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Đặc biệt trang sử Phật Giáo Thiền Tông Việt Nam thế kỷ 21 đã ghi một nét son sáng chói sau gần 20 thế kỷ hoằng truyền trên đất nước Việt Nam. Đó là Thiền Tông Việt Nam, đã truyền sang các nước từ Châu Âu, Bắc Mỹ châu sang Úc Châu.

Giá trị ngược

Một nghệ sĩ sáng giá đương thời đến Thiền viện Thường Chiếu kính viếng Thầy, Cô tâm sự với Thầy Viện chủ:

- Đời nghệ sĩ có cái vinh và cái nhục theo liền nhau. Hôm nào khỏe ca hay được mọi người vỗ tay hoan nghênh tán thưởng. Những khi bệnh yếu ca xong một khúc vọng cổ muốn đứt hơi mà thiên hạ chẳng ai có nửa lời, hay một cử chỉ nhỏ khích lệ.

- Con nay đã 42 tuổi, quãng đời nghệ sĩ của con đến đây cũng ví như đi Sàigòn - Vũng Tàu mà đi tới Bà Rịa, chẳng còn bao lâu nữa.

Buổi chiều ngồi nhàn hạ với bầy con vây quanh, phần lớn là các Tăng sĩ trẻ, Thầy Viện chủ so sánh:

- Đời nghệ sĩ và đời Tăng sĩ giá trị trái ngược nhau. Người nghệ sĩ còn trẻ, ca hay tương lai huy hoàng, khi về chiều, năm sáu mươi tuổi thì xuống dốc. Ngược lại, Tăng sĩ khi còn trẻ mới tu coi như không có giá trị gì, vì người ta nghĩ (không biết tu được lâu bền hay không). Đến chừng khoảng 50 tuổi (nếu tu từ nhỏ) giới đức đầy đủ, mọi người đều quí trọng, lúc đó phúc trí Tăng trưởng, chẳng những đời này mà cả đời sau nữa. Cho nên mấy chú mới tu đừng khoe mình tu hay.

Thầy kết luận:
- Chọn con đường tu, và tu đúng chánh pháp chẳng những đời này được tương lai tươi sáng, đời sau càng thêm sáng chói. Khéo gieo giống phước đức, trí tuệ làm tư lương, người tu đời đời hằng được an lạc, sanh ra nơi nào cũng được sáng suốt, mọi sự tốt đẹp, tiến tu cho đến khi phước huệ đầy đủ, trọn thành Phật quả.

Tính cách

Thầy thường nói với các thiền sinh:
- Sống với Tôi phải chịu cực, mấy chú chịu cực nổi không? Tôi chuộng người chịu cực chịu khổ. Có chịu khó khổ mới chứng tỏ con người có ý chí, sau ny mới đủ khả năng đảm đương việc lớn.
Làm việc gì Tôi chủ trương nắm phần chắc. Bỏ công của làm gì phải thu hoạch kết quả thật sự. (Thiền sinh nào đó một lần xin rút lui hay bị Thầy đuổi khỏi Thiền viện đừng hòng trở lại lần thứ hai).
Tính cách Thầy như thế, khẳng định lập trường, dứt khoát ngay từ đầu. Đạo pháp Thầy nghiêm như thế, toàn chúng thảy đều kính sợ, phục tùng, không ai dám rục rịch, hó hé gì nữa.
Trong chúng con, ai có thiện chí, nhiệt tình, ham học, ham tu Thầy rất thương, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho phát triển.

An ổn

Nhiều người được nghe pháp của Thầy, được đọc sách của Thầy viết, nhờ vậy mà sống an ổn hạnh phúc. Khi được gặp Thầy, quí vị ấy rơi nước mắt nói:
- Kính bạch Thầy, nhờ Thầy mà đời con có ý nghĩa. Trước kia con đau khổ u uất bao nhiều, nay đ rơi rớt sạch, Thầy đ đem hạnh phúc an bình đến cho đời con.
Thầy cười nói nhẹ nhàng:
Tôi đâu có đem lại cho quí vị cái gì? Tơi chỉ lm một việc l chỉ cho quí vị thấy, nhận ci sẵn cĩ để quí vị tự sáng rồi sống an ổn trong Phật pháp.
Thầy thường nói với cc thiền sinh v Phật tử:
Phật pháp nhiệm mầu, mỗi người khéo nhận ra, tự sống rồi từ đó sống an ổn, mặc cho dịng đời sóng gió biến động. Như một Thiền sư sau khi đại ngộ đ nĩi:
“Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhận vận trước y xiêm”
(Ty duyên tiêu nghiệp cũ, mặc tình mặc áo xiêm.)
Thầy kết luận: Hạnh phc trong hiện tại khơng phải tìm đâu xa. Thân khỏe (không bệnh hoạn) và tâm an đó là hạnh phúc.

Hai việc

Trong ngôi thất nhỏ sạch sẽ giản đơn, đàn con xúm xít vây quanh, Thầy ngồi trên ghế dựa, từng lời một rõ ràng, Người nói:
- Trọn đời, Tôi chỉ làm có hai việc: Tu hành và giảng dạy. Ngoài thời gian giảng dạy Tăng Ni thì nhập thất tu, lúc không rảnh yên tu thì dạy học. Tu học và giảng dạy đi đôi. Đó là lập trường cố hữu của Tôi từ nào giờ.
Một lần khác Thầy nói:
- Tôi là một kẻ mắc nợ lớn của Tăng Ni. Nhưng có điều đặc biệt là kẻ nợ này ai biết đòi mới trả, ai không biết đòi thì đình lại đó, không hẹn ngày trả.

Tai họa

Một hôm khi nghe có người phê bình không tốt về đường lối tu của Thiền viện, Thầy dạy:
- Các vị còn trẻ tuổi vào đạo không bao lâu, việc học, việc nghiên cứu còn non nớt chưa tới đâu. Về mặt tu Tôi cũng bảo đảm là mấy vị chưa tới đâu.
Đối với những lời dạy của các bậc tôn túc, nếu quí vị thấy thích thú an vui thì thực hành theo, còn như không thì để đó im lặng chờ xem, đừng vội phê phán lên án.
Bởi vì các tôn túc trưởng lão đã nhiều kinh nghiệm, nhiều tuổi đạo tuổi đời, các vị ấy biết rõ những gì mình làm, biết cái nào có kết quả tốt nên mới dạy.
Ngừng một chút, Thầy kết luận:
- Chưa thấu đáo mà vội vàng phê phán lời dạy bảo của các lão túc, coi chừng vô tình mang tội. Nếu cảm thấy không thích tốt hơn nên im lặng chờ xem. Rồi thời gian sẽ trả lời, kết quả tốt xấu đâu đó rõ ràng.

view(1191)